Vi diệu pháp mở đầu
Cơ bản
Tóm tắt
Nội dung
26/12/2019Hiện với tất cả
Thuộc mục:
Ảnh tiêu đề:
HiệnHiện
Tên:
Vi diệu pháp mở đầu
Thẻ Keywords (67 ký tự):
Vi diệu pháp mở đầu
Thẻ Description (160 ký tự):
Vi diệu pháp mở đầu
Thiết lập:Duyệt: Duyệt - Loại tin: - ---Chia sẻ---
Url nguồn:
Tóm tắt (Chỉ viết ngắn gọn ko viết dài quá)

<p>Tỳ kheo GI&Aacute;C CH&Aacute;NH</p>
webID: AB557DD1ED684468472584D2003D3491
<p>V&ocirc; thượng thậm th&acirc;m Vi Diệu Ph&aacute;p.</p>
<p>B&aacute; ni&ecirc;n vạn kiếp nan tao ngộ.</p>
<p>Ng&atilde; kim kiến văn đắc thọ tr&igrave;.<br>
Nguyện giải Như lai chơn thiệt nghĩa.<br>
<br>
Vi Diệu Ph&aacute;p, ph&aacute;p thẳm s&acirc;u,<br>
Trăm ng&agrave;n mu&ocirc;n kiếp kh&oacute; t&igrave;m cầu.<br>
Nay ta nghe thấy chuy&ecirc;n l&ograve;ng học,<br>
Nguyện giải Như lai nghĩa nhiệm mầu.<br>
<br>
-ooOoo-<br>
<br>
Mục Lục<br>
<br>
DẪN NHẬP<br>
[01] PH&Aacute;P<br>
[02] PH&Aacute;P TỤC &ETH;Ế<br>
[03] PH&Aacute;P CHƠN &ETH;Ế<br>
[04] T&Acirc;M<br>
[05] T&Acirc;M BẤT THIỆN<br>
[06] T&Acirc;M V&Ocirc; NH&Acirc;N<br>
[07] T&Acirc;M DỤC GIỚI TỊNH HẢO<br>
[08] T&Acirc;M SẮC GIỚI<br>
[09] T&Acirc;M V&Ocirc; SẮC GIỚI<br>
[10] T&Acirc;M SI&Ecirc;U THẾ<br>
[11] TỔNG KẾT C&Aacute;C LOẠI T&Acirc;M<br>
[12] SỞ HỮU T&Acirc;M<br>
[13] SỞ HỮU TỢ THA<br>
[14] SỞ HỮU BẤT THIỆN<br>
[15] SỞ HỮU TỊNH HẢO<br>
[16] TỔNG KẾT C&Aacute;C SỞ HỮU T&Acirc;M<br>
[17] SỰ PHỐI HỢP GIỮA T&Acirc;M V&Agrave; C&Aacute;C SỞ HỮU T&Acirc;M<br>
[18] LỘ TR&Igrave;NH T&Acirc;M<br>
[19] PHI LỘ<br>
[20] SẮC PH&Aacute;P<br>
<br>
-ooOoo-<br>
<br>
DẪN NHẬP<br>
<br>
Vi Diệu Ph&aacute;p xuất ph&aacute;t từ đ&acirc;u?<br>
<br>
Theo lịch sữ Phật Gi&aacute;o th&igrave; Vi Diệu Ph&aacute;p được &ETH;ức Phật thuyết v&agrave;o hạ thứ bảy tại cung trời &ETH;ạo Lợi (Tam Thập Tam Thi&ecirc;n - Tāvatiṃsa) với mục đ&iacute;ch l&agrave; độ th&acirc;n mẫu của Ng&agrave;i.<br>
<br>
Theo một v&agrave;i học gi&atilde; th&igrave; Vi Diệu Ph&aacute;p kh&ocirc;ng phải do ch&iacute;nh &ETH;ức Phật thuyết m&agrave; l&agrave; do c&aacute;c vị Sư uy&ecirc;n b&aacute;c soạn thảo ra sau nầy. &ETH;ại &ETH;ức Nārada, một nh&agrave; học Phật l&atilde;o th&agrave;nh đ&atilde; viết: &quot;&ETH;&uacute;ng theo truyền thống th&igrave; ch&iacute;nh &ETH;ức Phật đ&atilde; dạy phần ch&iacute;nh yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi l&agrave; &ETH;ầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguy&ecirc;n thủy của gi&aacute;o l&yacute; như Ph&aacute;p Thiện (Kusalā Dhammā), hay Ph&aacute;p Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Ph&aacute;p V&ocirc;-K&yacute; (Abyākatā Dhammā) ...&quot;.<br>
<br>
Trong 6 tập của Tạng Diệu Ph&aacute;p (trừ tập Ngữ Tổng - Kathāvatthu - do Ng&agrave;i Mục Kiền Li&ecirc;n (Moggallanaputta) viết; cũng c&oacute; thuyết cho rằng tập n&agrave;y do ch&iacute;nh &ETH;ức Phật thuyết nhưng Ng&agrave;i Moggallana th&ecirc;m v&agrave;o 500 c&acirc;u) đều do &ETH;ức Phật thuyết v&agrave; &ETH;ại &ETH;ức X&aacute; lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng v&agrave; s&acirc;u v&agrave;o chi tiết.<br>
<br>
Dầu t&aacute;c giả l&agrave; ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Ph&aacute;p l&agrave; một c&ocirc;ng tr&igrave;nh s&aacute;ng t&aacute;c của một bộ &oacute;c kỳ t&agrave;i c&oacute; thể so s&aacute;nh với một vị Phật.<br>
<br>
Ch&uacute;ng ta kh&ocirc;ng cần phải biết l&agrave; Vi Diệu Ph&aacute;p c&oacute; phải do ch&iacute;nh &ETH;ức Phật thuyết hay kh&ocirc;ng m&agrave; chỉ cần s&aacute;ng suốt nhận định về những điều m&agrave; Tạng Diệu Ph&aacute;p đề cập đến. Bởi người n&agrave;o thấu r&otilde; được ch&acirc;n l&yacute; th&igrave; người đ&oacute; ch&iacute;nh l&agrave; người gi&aacute;c ngộ (hay Phật) v&agrave; chỉ người n&agrave;o hiểu được lẽ thật, người đ&oacute; mới n&oacute;i l&ecirc;n được sự thật.<br>
<br>
Vi Diệu Ph&aacute;p l&agrave; g&igrave;?<br>
<br>
Phạn ngữ Abhidhamma c&oacute; nghĩa l&agrave; những gi&aacute;o l&yacute; cao si&ecirc;u, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi d&ugrave;ng để diễn đạt sự tinh tế, th&ugrave; thắng, s&acirc;u xa. Danh từ Dhamma dịch l&agrave; Ph&aacute;p, một Phạn ngữ c&oacute; nhiều nghĩa, ở đ&acirc;y n&oacute; c&oacute; nghĩa l&agrave; lời dạy của &ETH;ức Phật, gi&aacute;o điều hay gi&aacute;o l&yacute;. Vậy Vi Diệu Ph&aacute;p l&agrave; những gi&aacute;o l&yacute; tinh hoa của &ETH;ức Phật, gi&aacute;o l&yacute; n&agrave;y c&oacute; t&iacute;nh chất đặc th&ugrave; hơn Kinh tạng v&agrave; Luật tạng.<br>
<br>
Ch&uacute;ng ta c&oacute; thể thắc mắc l&agrave; tại sao Kinh tạng v&agrave; Luật tạng n&oacute;i ri&ecirc;ng, v&agrave; to&agrave;n thể gi&aacute;o l&yacute; của &ETH;ức Phật n&oacute;i chung, đều c&oacute; hiệu năng đưa đến giải tho&aacute;t; tại sao lại c&oacute; phần n&agrave;y gọi l&agrave; Vi Diệu m&agrave; phần kia th&igrave; kh&ocirc;ng?.<br>
<br>
Ở đ&acirc;y, tiếng Vi Diệu (cao s&acirc;u) kh&ocirc;ng d&ugrave;ng với &yacute; niệm giải tho&aacute;t m&agrave; d&ugrave;ng tr&ecirc;n phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh v&agrave; Luật tr&igrave;nh b&agrave;y Ph&aacute;p l&yacute; theo ng&ocirc;n từ phổ th&ocirc;ng, theo Ph&aacute;p Tục &ETH;ế; th&igrave; tạng Abhidhamma tr&igrave;nh b&agrave;y những ph&aacute;p bản thể chơn tướng hay ph&aacute;p Chơn &ETH;ế (Paramattha).<br>
<br>
Một điều cần ghi nhận l&agrave; tạng Diệu Ph&aacute;p d&ugrave;ng c&aacute;c danh từ diễn đạt ph&aacute;p l&yacute; theo một thuật ngữ chuy&ecirc;n m&ocirc;n, tức l&agrave; c&aacute;c danh từ chơn đế (danh chơn chế định).<br>
<br>
Như ở Kinh tạng v&agrave; Luật tạng, khi n&oacute;i đến ch&uacute;ng sanh, Phật d&ugrave;ng c&aacute;c danh từ mặc ước, kh&aacute;i niệm như Chư thi&ecirc;n, Ma vương, Vua, Quan, ... C&ograve;n ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến ch&uacute;ng sanh, Phật d&ugrave;ng c&aacute;c từ như Uẩn, Xứ, Giới, &ETH;ế, ...<br>
<br>
Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma ch&uacute; trọng về 4 ph&aacute;p gọi l&agrave; V&ocirc; Ngại Giải (Paṭisambhidā) = sự th&ocirc;ng suốt, kh&ocirc;ng c&oacute; ngăn ngại trong việc giảng giải. Bốn ph&aacute;p v&ocirc; ngại giải ấy l&agrave;:<br>
<br>
1) Ph&aacute;p v&ocirc; ngại giải (Dhammapaṭisambhidā): l&agrave; sự diễn đạt th&ocirc;ng suốt c&aacute;c ph&aacute;p, v&igrave; ở tạng Vi Diệu Ph&aacute;p c&aacute;c ph&aacute;p được gom lại th&agrave;nh một giềng mối v&agrave; ph&acirc;n t&iacute;ch r&otilde; r&agrave;ng.<br>
<br>
2) Nghĩa v&ocirc; ngại giải (Atthapaṭisambhidā): l&agrave; c&aacute;c &yacute; nghĩa được tr&igrave;nh b&agrave;y, giải th&iacute;ch một c&aacute;c rộng rải, kh&ocirc;ng sai lầm. Trong tạng Diệu Ph&aacute;p, c&aacute;c &yacute; nghĩa của danh từ, của c&aacute;c ph&aacute;p được minh định một c&aacute;ch r&otilde; r&agrave;ng chứ kh&ocirc;ng c&oacute; sự l&ocirc;i th&ocirc;i trong vấn đề định nghĩa.<br>
<br>
3) Từ v&ocirc; ngại giải (Niruttipaṭisambhidā): l&agrave; sự d&ugrave;ng từ để diễn đạt ph&aacute;p rất th&ocirc;ng suốt, kh&ocirc;ng lẩn lộn. Trong tạng Diệu Ph&aacute;p c&aacute;c từ ngữ được d&ugrave;ng một c&aacute;ch rất ch&iacute;nh x&aacute;c, đ&acirc;u ra đấy. Th&iacute; dụ như tiếng &quot; tư tưởng &quot; m&agrave; ta thường d&ugrave;ng theo phổ th&ocirc;ng được hiểu l&agrave; &yacute; nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Ph&aacute;p &quot; Tư &quot; l&agrave; sự cố &yacute;, suy nghĩ v&agrave; &quot; Tưởng &quot; được d&ugrave;ng để chỉ sự nhớ lại, &ocirc;n lại ...<br>
<br>
4) Biện v&ocirc; ngại giải (Paṭibhānapaṭisambhidā): l&agrave; sự th&ocirc;ng suốt, lưu lo&aacute;t trong sự biện b&aacute;c. Trong tạng Diệu Ph&aacute;p, ph&aacute;p l&yacute; được tr&igrave;nh b&agrave;y đầy đủ, nghĩa l&yacute; được giải th&iacute;ch r&otilde; r&agrave;ng, ng&ocirc;n từ d&ugrave;ng đ&uacute;ng chỗ kh&ocirc;ng lẩn lộn. Nhờ c&aacute;c ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ kh&ocirc;ng l&uacute;ng t&uacute;ng khi tr&igrave;nh b&agrave;y c&aacute;c ph&aacute;p l&yacute;.<br>
<br>
Với những l&yacute; do tr&ecirc;n, n&ecirc;n tạng n&agrave;y được gọi l&agrave; Vi Diệu. Ngo&agrave;i ra, chữ Abhidhamma c&ograve;n được c&aacute;c dịch giả Trung Hoa dịch l&agrave; :<br>
<br>
V&ocirc; tỷ ph&aacute;p : l&agrave; ph&aacute;p cao si&ecirc;u, kh&ocirc;ng c&oacute; ph&aacute;p n&agrave;o so s&aacute;nh bằng.<br>
Thắng ph&aacute;p: l&agrave; ph&aacute;p th&ugrave; thắng hơn Kinh tạng v&agrave; Luật tạng.<br>
&ETH;ại ph&aacute;p: l&agrave; ph&aacute;p cao s&acirc;u, rộng r&atilde;i hơn c&aacute;c ph&aacute;p trong Kinh tạng v&agrave; Luật tạng.<br>
&ETH;ối ph&aacute;p: l&agrave; đối tượng của tr&iacute; tuệ cao si&ecirc;u, s&aacute;ng suốt.<br>
Hướng ph&aacute;p: l&agrave; ph&aacute;p c&oacute; khả năng hướng đến sự giải tho&aacute;t, gi&aacute;c ngộ, liểu tri c&aacute;c ph&aacute;p.<br>
<br>
Yếu lược nội dung Vi Diệu Ph&aacute;p.<br>
<br>
Theo b&agrave; Rhys David, một học giả người Anh, khi n&oacute;i về nội dung Vi Diệu Ph&aacute;p, đả viết: &quot; Vi Diệu Ph&aacute;p n&oacute;i g&igrave;? - Vi Diệu Ph&aacute;p n&oacute;i những g&igrave; trong ta, ngo&agrave;i ta v&agrave; chung quanh ta &quot;.<br>
<br>
C&aacute;i g&igrave; trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, H&agrave;nh, Thức hay Ngũ Uẩn- những th&agrave;nh phần hợp lại th&agrave;nh một con người, một ch&uacute;ng sanh. Vi Diệu Ph&aacute;p tr&igrave;nh b&agrave;y con người về cả hai phương diện T&acirc;m l&yacute; v&agrave; Vật l&yacute;.<br>
<br>
C&aacute;i g&igrave; ngo&agrave;i ta v&agrave; c&aacute;i g&igrave; chung quanh ta? - Ngo&agrave;i việc tr&igrave;nh b&agrave;y cho thấy bản thể, chơn tướng của ch&uacute;ng ta, Vi Diệu Ph&aacute;p c&ograve;n chỉ cho ta thấy những g&igrave; thuộc về ngoại th&acirc;n, những hiện tượng sanh diệt của những g&igrave; thuộc về thế giới b&ecirc;n ngo&agrave;i của ch&uacute;ng ta v&agrave; sự tho&aacute;t ly thế gian (Niết B&agrave;n).<br>
<br>
Như vậy, b&agrave; David đ&atilde; cho ta thấy rằng Vi Diệu Ph&aacute;p tr&igrave;nh b&agrave;y những chơn tướng, thực thể của c&aacute;i g&igrave; thuộc về nội th&acirc;n v&agrave; những g&igrave; thuộc về ngoại th&acirc;n. Cũng n&ecirc;n n&oacute;i th&ecirc;m l&agrave; khi tr&igrave;nh b&agrave;y những điều ấy, Vi Diệu Ph&aacute;p đ&atilde; m&ocirc; tả về trạng th&aacute;i, nh&acirc;n sinh, sở h&agrave;nh, ..., của từng ph&aacute;p một c&aacute;ch rất chi tiết.<br>
<br>
T&oacute;m lại, với c&acirc;u giải tr&ecirc;n, ch&uacute;ng ta đ&atilde; thấy Vi Diệu Ph&aacute;p n&oacute;i g&igrave; v&agrave; đề cập đến những g&igrave;. Sang một kh&iacute;a cạnh kh&aacute;c, ch&uacute;ng ta c&oacute; thể hỏi: &quot; khi tr&igrave;nh b&agrave;y, ph&acirc;n giải những điều ấy, Vi Diệu Ph&aacute;p muốn cho ta biết những g&igrave;?&quot;.<br>
<br>
Ng&agrave;i &ETH;ại &ETH;ức Santakicco (Tịnh Sự) - một học giả chuy&ecirc;n m&ocirc;n về Abhidhamma - đ&atilde; n&oacute;i: &quot;Vi Diệu Ph&aacute;p tr&igrave;nh b&agrave;y về sự v&ocirc; thường, khổ n&atilde;o, v&ocirc; ng&atilde; v&agrave; c&aacute;i g&igrave; vượt ngo&agrave;i ba tướng trạng ấy&quot;.<br>
<br>
C&acirc;u n&oacute;i tr&ecirc;n đ&atilde; h&agrave;m tận những &yacute; nghĩa hết sức s&acirc;u xa v&agrave; c&ocirc; động một c&aacute;ch đầy đủ về nội dung của Vi Diệu Ph&aacute;p.<br>
<br>
Ở tạng Diệu Ph&aacute;p, bốn vấn đề trọng yếu được tr&igrave;nh b&agrave;y l&agrave; T&acirc;m (th&agrave;nh phần tri gi&aacute;c của ch&uacute;ng sanh); Sở hữu t&acirc;m (Th&agrave;nh phần phụ thuộc của t&acirc;m); Sắc ph&aacute;p (th&agrave;nh phần vật chất) v&agrave; Niết B&agrave;n (sự vắng lặng c&aacute;c ph&aacute;p h&agrave;nh).<br>
<br>
Khi b&agrave;n về T&acirc;m cũng như Sở hữu t&acirc;m, Vi Diệu Ph&aacute;p đ&atilde; cho ta thấy những Duy&ecirc;n (Paccayo) hay yếu tố tạo th&agrave;nh sự hiện hữu của T&acirc;m v&agrave; sự diễn tiến hoại diệt của từng t&acirc;m s&aacute;t na trong Lộ tr&igrave;nh t&acirc;m (Cittavithā).<br>
<br>
Cũng vậy, khi n&oacute;i về Sắc ph&aacute;p, Vi Diệu Ph&aacute;p đ&atilde; tr&igrave;nh b&agrave;y về thể trạng của Sắc ph&aacute;p, những duy&ecirc;n trợ tạo v&agrave; g&igrave;n giữ sắc ph&aacute;p, cũng như tiến tr&igrave;nh sanh diệt của từng s&aacute;t na sắc ph&aacute;p trong Lộ sắc.<br>
<br>
Cuối c&ugrave;ng, sau khi đ&atilde; tr&igrave;nh b&agrave;y về c&aacute;c ph&aacute;p hữu vi (ph&aacute;p do duy&ecirc;n trợ tạo), Vi Diệu Ph&aacute;p c&ograve;n tr&igrave;nh b&agrave;y về Niết B&agrave;n (một trạng th&aacute;i v&ocirc; vi), kh&ocirc;ng bị chi phối bởi v&ocirc; thường, khổ n&atilde;o, v&ocirc; ng&atilde;.<br>
<br>
&ETH;ể kết luận, ta c&oacute; thể n&oacute;i, nội dung của Vi Diệu Ph&aacute;p l&agrave; dạy cho ch&uacute;ng ta r&otilde; về con người, thế gian v&agrave; xuất thế gian (Niết B&agrave;n).<br>
<br>
Mục đ&iacute;ch của việc học Vi Diệu Ph&aacute;p.<br>
<br>
Khi đ&atilde; hiểu biết Vi Diệu Ph&aacute;p n&oacute;i g&igrave; th&igrave; vấn đề cần b&agrave;n đến l&agrave; học Vi Diệu Ph&aacute;p để l&agrave;m chi? Hay mục đ&iacute;ch của việc học Vi Diệu Ph&aacute;p l&agrave; g&igrave;? Học Vi Diệu Ph&aacute;p c&oacute; lợi &iacute;ch g&igrave;?<br>
<br>
Phật gi&aacute;o đ&atilde; dạy về bản chất giả tạm, khổ n&atilde;o của thế gian v&agrave; con đường vượt khỏi những điều ấy l&agrave; con đường si&ecirc;u thế gian. V&igrave; vậy, khi đ&aacute;nh thức giấc mộng v&ocirc; minh của ch&uacute;ng sanh, Phật đ&atilde; d&ugrave;ng nhiều phương tiện, tr&igrave;nh b&agrave;y về bản chất thật thể của thế gian l&agrave; như thế n&agrave;o để ch&uacute;ng sanh c&oacute; thể &yacute; thức được bản chất thật của thế gian l&agrave; v&ocirc; thường, khổ n&atilde;o v&agrave; v&ocirc; ng&atilde;.<br>
<br>
Trong tinh thần đ&oacute;, Vi Diệu Ph&aacute;p n&oacute;i l&ecirc;n lẽ thật, chơn tướng bản thể của c&aacute;c ph&aacute;p để ch&uacute;ng ta c&oacute; được &yacute; niệm đứng đắn về thế gian (dẹp bỏ những th&agrave;nh kiến sai lầm).<br>
<br>
Vi Diệu Ph&aacute;p gi&uacute;p ch&uacute;ng ta thấy r&otilde; chơn tướng của c&aacute;c ph&aacute;p v&agrave; nhờ đ&oacute; ta c&oacute; thể dẹp đi những kiến thức sai lầm về con người v&agrave; thế gian.<br>
<br>
Tr&ecirc;n con đường tu tập, người phật tử cần l&agrave;m hai việc: học ph&aacute;p v&agrave; h&agrave;nh ph&aacute;p. Học ph&aacute;p l&agrave; t&igrave;m hiểu, thu lượm cho m&igrave;nh một kiến thức đ&uacute;ng, lợi &iacute;ch cho việc tu tập. H&agrave;nh ph&aacute;p l&agrave; đem những điều học được &aacute;p dụng cho đời sống h&agrave;ng ng&agrave;y. Vi Diệu Ph&aacute;p sẽ th&iacute;ch ứng, v&agrave; hết sức bổ &iacute;ch cho cả hai việc l&agrave;m đ&oacute;.<br>
<br>
Vi Diệu Ph&aacute;p gi&uacute;p cho ta một kiến thức cơ bản, kh&ocirc;ng bị lầm lẩn khi nghi&ecirc;n cứu Phật ph&aacute;p, bằng những c&aacute;ch diễn đạt Ph&aacute;p v&ocirc; ngại giải, Từ v&ocirc; ngại giải v&agrave; Biện v&ocirc; ngại giải. Nhờ đ&oacute; ta c&oacute; thể lảnh hội dể d&agrave;ng những &yacute; nghĩa trong những lời dạy của &ETH;ức Phật.<br>
<br>
Th&iacute; dụ: Trong tạng Kinh, &ETH;ức Phật dạy về Ph&aacute;p V&ocirc; Ng&atilde; (kh&ocirc;ng c&oacute; c&aacute;i ta, kh&ocirc;ng phải l&agrave; của ta), rồi trong tạng Luật, Phật lại dạy: &quot;Lấy vật c&oacute; chủ l&agrave; trộm cắp&quot;, hai điều tr&ecirc;n sẽ g&acirc;y hoang mang cho ch&uacute;ng ta nếu ch&uacute;ng ta kh&ocirc;ng biết về ph&aacute;p tục đế (Sammuttisacca) v&agrave; ph&aacute;p chơn đế (Paramatthasacca) được giảng trong Vi Diệu Ph&aacute;p. &ETH;&oacute; l&agrave; lợi &iacute;ch đối với việc học ph&aacute;p. Về mặt h&agrave;nh ph&aacute;p, nhất l&agrave; đối với những người h&agrave;nh thiền qu&aacute;n, Vi Diệu Ph&aacute;p lại l&agrave; một m&ocirc;n học thiết yếu nhất, n&oacute; cho ch&uacute;ng ta một sự hiểu biết r&otilde; r&agrave;ng về Danh Sắc, ph&acirc;n t&iacute;ch, giải th&iacute;ch r&otilde; r&agrave;ng c&aacute;c ph&aacute;p hữu vi, nhờ đ&oacute;, khi thực h&agrave;nh thiền qu&aacute;n, minh s&aacute;t, ch&uacute;ng ta sẽ nhận định r&otilde; r&agrave;ng v&agrave; ch&iacute;nh x&aacute;c về c&aacute;c đề mục (Th&acirc;n, Thọ, T&acirc;m, Ph&aacute;p).<br>
<br>
Một người đ&atilde; học Abhidhamma, khi h&agrave;nh Tứ Niệm Xứ sẽ nhận định r&otilde; r&agrave;ng v&agrave; ch&iacute;nh x&aacute;c c&aacute;c đề mục. Tr&aacute;i lại, một người h&agrave;nh Tứ Niệm Xứ m&agrave; kh&ocirc;ng biết g&igrave; về Vi Diệu Ph&aacute;p th&igrave; c&oacute; thể lẩn lộn, sai lầm trong việc qu&aacute;n s&aacute;t c&aacute;c đề mục.<br>
<br>
So s&aacute;nh.<br>
<br>
- Nếu n&oacute;i tr&ecirc;n phương diện đặc biệt ri&ecirc;ng của tạng Diệu ph&aacute;p trong Tam Tạng th&igrave;:<br>
<br>
Tạng Kinh: s&acirc;u xa về nghĩa l&yacute; (Suttana Attha Gambhiro).<br>
<br>
Tạng Luật: s&acirc;u xa về việc l&agrave;m (Vinaya Kicca Gambhiro).<br>
<br>
Tạng Diệu ph&aacute;p: (tạng Luận), s&acirc;u xa về bản thể của c&aacute;c ph&aacute;p (Abhidhamma Sabhāva Gambhiro).<br>
<br>
- Nếu n&oacute;i về t&iacute;nh chất quan trọng của tạng Diệu ph&aacute;p trong Tam Tạng qua th&iacute; dụ của &quot;c&acirc;y&quot; th&igrave; :<br>
<br>
Tạng Kinh: l&agrave; phần b&ocirc;ng hoa, c&agrave;nh l&aacute; của c&acirc;y, bởi tạng Kinh ti&ecirc;u biểu cho vẽ đẹp của gi&aacute;o l&yacute; Phật gi&aacute;o.<br>
<br>
Tạng Luật: l&agrave; gốc rể của c&acirc;y, bởi tạng Luật l&agrave; nền tảng, l&agrave; sự sống c&ograve;n của gi&aacute;o l&yacute;. Tạng Luật c&ograve;n, Phật gi&aacute;o c&ograve;n. Tạng Luật mất, Phật gi&aacute;o mất.<br>
<br>
Tạng Diệu ph&aacute;p: l&agrave; l&otilde;i c&acirc;y, v&igrave; n&oacute; l&agrave; phần tinh t&uacute;y, tinh hoa của gi&aacute;o l&yacute;.<br>
<br>
- Nếu n&oacute;i tr&ecirc;n bước tiến tu tập của người Phật tử th&igrave; gi&aacute; trị của tạng Diệu ph&aacute;p trong Tam Tạng l&agrave;:<br>
<br>
Tạng Kinh gọi người đến: v&igrave; tạng Kinh rất hấp dẫn, thu h&uacute;t.<br>
<br>
Tạng Luật tr&oacute;i người lại : v&igrave; tạng Luật gh&eacute;p đời sống v&agrave;o khu&ocirc;n khổ, qui củ.<br>
<br>
Tạng Diệu Ph&aacute;p giết người chết: v&igrave; b&agrave;i trừ tất cả mọi kiến thức sai lầm, nhất l&agrave; ng&atilde; chấp.<br>
<br>
Do đ&oacute;, ta c&oacute; thể n&oacute;i, nếu nghi&ecirc;n cứu v&agrave; t&igrave;m hiểu Phật ph&aacute;p m&agrave; kh&ocirc;ng biết về tạng Diệu Ph&aacute;p l&agrave; một thiếu s&oacute;t lớn; hơn thế nửa, việc học hỏi Phật ph&aacute;p cũng kh&ocirc;ng bảo đảm chắc chắn được.<br>
<br>
-ooOoo-<br>
<br>
Ch&acirc;n th&agrave;nh c&aacute;m ơn B&aacute;c sĩ Nguyễn Tối Thiện đ&atilde; gửi tặng bản vi t&iacute;nh (B&igrave;nh Anson, 10-2002).</p>

Vô thượng thậm thâm Vi Diệu Pháp.

Bá niên vạn kiếp nan tao ngộ.

Ngã kim kiến văn đắc thọ trì.
Nguyện giải Như lai chơn thiệt nghĩa.

Vi Diệu Pháp, pháp thẳm sâu,
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu.
Nay ta nghe thấy chuyên lòng học,
Nguyện giải Như lai nghĩa nhiệm mầu.

-ooOoo-

Mục Lục

DẪN NHẬP
[01] PHÁP
[02] PHÁP TỤC ÐẾ
[03] PHÁP CHƠN ÐẾ
[04] TÂM
[05] TÂM BẤT THIỆN
[06] TÂM VÔ NHÂN
[07] TÂM DỤC GIỚI TỊNH HẢO
[08] TÂM SẮC GIỚI
[09] TÂM VÔ SẮC GIỚI
[10] TÂM SIÊU THẾ
[11] TỔNG KẾT CÁC LOẠI TÂM
[12] SỞ HỮU TÂM
[13] SỞ HỮU TỢ THA
[14] SỞ HỮU BẤT THIỆN
[15] SỞ HỮU TỊNH HẢO
[16] TỔNG KẾT CÁC SỞ HỮU TÂM
[17] SỰ PHỐI HỢP GIỮA TÂM VÀ CÁC SỞ HỮU TÂM
[18] LỘ TRÌNH TÂM
[19] PHI LỘ
[20] SẮC PHÁP

-ooOoo-

DẪN NHẬP

Vi Diệu Pháp xuất phát từ đâu?

Theo lịch sữ Phật Giáo thì Vi Diệu Pháp được Ðức Phật thuyết vào hạ thứ bảy tại cung trời Ðạo Lợi (Tam Thập Tam Thiên - Tāvatiṃsa) với mục đích là độ thân mẫu của Ngài.

Theo một vài học giã thì Vi Diệu Pháp không phải do chính Ðức Phật thuyết mà là do các vị Sư uyên bác soạn thảo ra sau nầy. Ðại Ðức Nārada, một nhà học Phật lão thành đã viết: "Ðúng theo truyền thống thì chính Ðức Phật đã dạy phần chính yếu của tạng nầy. Những đoạn ấy được gọi là Ðầu đề (Mātikā) hay nồng cốt nguyên thủy của giáo lý như Pháp Thiện (Kusalā Dhammā), hay Pháp Bất Thiện (Akusalā Dhammā), Pháp Vô-Ký (Abyākatā Dhammā) ...".

Trong 6 tập của Tạng Diệu Pháp (trừ tập Ngữ Tổng - Kathāvatthu - do Ngài Mục Kiền Liên (Moggallanaputta) viết; cũng có thuyết cho rằng tập này do chính Ðức Phật thuyết nhưng Ngài Moggallana thêm vào 500 câu) đều do Ðức Phật thuyết và Ðại Ðức Xá lợi Phất (Sārīputta) được danh dự giảng rộng và sâu vào chi tiết.

Dầu tác giả là ai, nhưng chắc chắn Tạng Diệu Pháp là một công trình sáng tác của một bộ óc kỳ tài có thể so sánh với một vị Phật.

Chúng ta không cần phải biết là Vi Diệu Pháp có phải do chính Ðức Phật thuyết hay không mà chỉ cần sáng suốt nhận định về những điều mà Tạng Diệu Pháp đề cập đến. Bởi người nào thấu rõ được chân lý thì người đó chính là người giác ngộ (hay Phật) và chỉ người nào hiểu được lẽ thật, người đó mới nói lên được sự thật.

Vi Diệu Pháp là gì?

Phạn ngữ Abhidhamma có nghĩa là những giáo lý cao siêu, vi diệu. Tiếp đầu ngữ Abhi dùng để diễn đạt sự tinh tế, thù thắng, sâu xa. Danh từ Dhamma dịch là Pháp, một Phạn ngữ có nhiều nghĩa, ở đây nó có nghĩa là lời dạy của Ðức Phật, giáo điều hay giáo lý. Vậy Vi Diệu Pháp là những giáo lý tinh hoa của Ðức Phật, giáo lý này có tính chất đặc thù hơn Kinh tạng và Luật tạng.

Chúng ta có thể thắc mắc là tại sao Kinh tạng và Luật tạng nói riêng, và toàn thể giáo lý của Ðức Phật nói chung, đều có hiệu năng đưa đến giải thoát; tại sao lại có phần này gọi là Vi Diệu mà phần kia thì không?.

Ở đây, tiếng Vi Diệu (cao sâu) không dùng với ý niệm giải thoát mà dùng trên phương tiện diễn đạt. Trong khi tạng Kinh và Luật trình bày Pháp lý theo ngôn từ phổ thông, theo Pháp Tục Ðế; thì tạng Abhidhamma trình bày những pháp bản thể chơn tướng hay pháp Chơn Ðế (Paramattha).

Một điều cần ghi nhận là tạng Diệu Pháp dùng các danh từ diễn đạt pháp lý theo một thuật ngữ chuyên môn, tức là các danh từ chơn đế (danh chơn chế định).

Như ở Kinh tạng và Luật tạng, khi nói đến chúng sanh, Phật dùng các danh từ mặc ước, khái niệm như Chư thiên, Ma vương, Vua, Quan, ... Còn ở tạng Abhidhamma khi đề cập đến chúng sanh, Phật dùng các từ như Uẩn, Xứ, Giới, Ðế, ...

Về phương diện diễn đạt, tạng Abhidhamma chú trọng về 4 pháp gọi là Vô Ngại Giải (Paṭisambhidā) = sự thông suốt, không có ngăn ngại trong việc giảng giải. Bốn pháp vô ngại giải ấy là:

1) Pháp vô ngại giải (Dhammapaṭisambhidā): là sự diễn đạt thông suốt các pháp, vì ở tạng Vi Diệu Pháp các pháp được gom lại thành một giềng mối và phân tích rõ ràng.

2) Nghĩa vô ngại giải (Atthapaṭisambhidā): là các ý nghĩa được trình bày, giải thích một các rộng rải, không sai lầm. Trong tạng Diệu Pháp, các ý nghĩa của danh từ, của các pháp được minh định một cách rõ ràng chứ không có sự lôi thôi trong vấn đề định nghĩa.

3) Từ vô ngại giải (Niruttipaṭisambhidā): là sự dùng từ để diễn đạt pháp rất thông suốt, không lẩn lộn. Trong tạng Diệu Pháp các từ ngữ được dùng một cách rất chính xác, đâu ra đấy. Thí dụ như tiếng " tư tưởng " mà ta thường dùng theo phổ thông được hiểu là ý nghĩ, nhưng ở tạng Diệu Pháp " Tư " là sự cố ý, suy nghĩ và " Tưởng " được dùng để chỉ sự nhớ lại, ôn lại ...

4) Biện vô ngại giải (Paṭibhānapaṭisambhidā): là sự thông suốt, lưu loát trong sự biện bác. Trong tạng Diệu Pháp, pháp lý được trình bày đầy đủ, nghĩa lý được giải thích rõ ràng, ngôn từ dùng đúng chỗ không lẩn lộn. Nhờ các ưu điểm ấy, người học Abhidhamma sẽ không lúng túng khi trình bày các pháp lý.

Với những lý do trên, nên tạng này được gọi là Vi Diệu. Ngoài ra, chữ Abhidhamma còn được các dịch giả Trung Hoa dịch là :

Vô tỷ pháp : là pháp cao siêu, không có pháp nào so sánh bằng.
Thắng pháp: là pháp thù thắng hơn Kinh tạng và Luật tạng.
Ðại pháp: là pháp cao sâu, rộng rãi hơn các pháp trong Kinh tạng và Luật tạng.
Ðối pháp: là đối tượng của trí tuệ cao siêu, sáng suốt.
Hướng pháp: là pháp có khả năng hướng đến sự giải thoát, giác ngộ, liểu tri các pháp.

Yếu lược nội dung Vi Diệu Pháp.

Theo bà Rhys David, một học giả người Anh, khi nói về nội dung Vi Diệu Pháp, đả viết: " Vi Diệu Pháp nói gì? - Vi Diệu Pháp nói những gì trong ta, ngoài ta và chung quanh ta ".

Cái gì trong ta? - Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hay Ngũ Uẩn- những thành phần hợp lại thành một con người, một chú