Mi tiên vấn đáp - Phần I.1 - Ngoại Thuyết
Cơ bản
Tóm tắt
Nội dung
15/03/2020
Thuộc mục:
Ảnh tiêu đề:
Ẩn ảnhHiện
Tên:
Mi tiên vấn đáp - Phần I.1 - Ngoại Thuyết
Thẻ Keywords (67 ký tự):
Mi tiên vấn đáp - Phần I.1 - Ngoại Thuyết
Thẻ Description (160 ký tự):
Mi tiên vấn đáp dịch bởi Hòa Thượng Giới nghiêm - Phần I.1 - Ngoại Thuyết
Thiết lập:Duyệt: Duyệt - Loại tin: Mới - ---Chia sẻ---
Url nguồn:
Tóm tắt (Chỉ viết ngắn gọn ko viết dài quá)

<p>Mi ti&ecirc;n vấn đ&aacute;p dịch bởi H&ograve;a Thượng Giới nghi&ecirc;m - Phần I.1 - Ngoại Thuyết</p>
webID: AB557DD1ED684468472584D2003D3491
<h3>I. PHẦN DẪN NHẬP</h3>
<div><b>01. Ngoại thuyết (B&agrave;hirakath&agrave;)</b></div>
<div>Sau khi Đức Thế T&ocirc;n tuy&ecirc;n bố sắp nhập Niết b&agrave;n, ng&agrave;i c&ugrave;ng với một số đ&ocirc;ng tỳ khưu Tăng đến th&agrave;nh Kusin&agrave;ra thuộc quốc độ Malla. Đến khu rừng m&aacute;t mẻ, dừng lại dưới hai cội c&acirc;y s&agrave;la tươi đẹp với bốn nh&aacute;nh vươn cao v&agrave; tỏa rộng, hoa nở rực rỡ v&agrave; ngạt ng&agrave;o hương, ng&agrave;i bảo t&ocirc;n giả Ananda xếp y tăng-gi&agrave;-l&ecirc; rồi n&oacute;i:</div>
<div>- Như Lai sẽ Niết b&agrave;n ở đ&acirc;y!</div>
<div>Thế rồi, Đức Thế T&ocirc;n nằm nghi&ecirc;ng lưng tr&ecirc;n tảng đ&aacute; bằng phẳng, đầu quay về ph&iacute;a bắc, mặt quay về ph&iacute;a t&acirc;y. Chư tỳ khưu Tăng ngồi v&ograve;ng quanh y&ecirc;n lặng như một rừng thiền định. Giữa tiếng chim r&iacute;u r&iacute;t, v&agrave;i c&aacute;nh hoa rơi khẽ, b&agrave;i ph&aacute;p sau đ&acirc;y đ&atilde; được Đấng Gi&aacute;c ngộ thuyết l&ecirc;n:</div>
<div>-&quot;N&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! Như Lai nhắc nhở v&agrave; căn dặn c&aacute;c thầy như vầy: tất cả ph&aacute;p hữu vi đều kh&ocirc;ng chắc thật, kh&ocirc;ng bền vững. Tất cả c&aacute;c ph&aacute;p hữu vi dầu th&ocirc; thiển hay vi tế đều bị sự t&aacute;c động của v&ocirc; thường, biến hoại, đổi kh&aacute;c.</div>
<div>Tất cả ph&aacute;p hữu vi, nếu l&agrave; thiện ph&aacute;p, l&agrave; phước tạo t&aacute;c (punn&agrave;bhi), cấu tạo n&ecirc;n th&acirc;n t&acirc;m của người v&agrave; trời; n&oacute;i c&aacute;ch kh&aacute;c, l&agrave; nh&acirc;n sanh s&aacute;u cảnh trời dục giới hoặc được l&agrave;m người c&oacute; phước b&aacute;u sắc th&acirc;n xinh đẹp, &iacute;t bệnh tật, &iacute;t khổ đau, nhưng n&oacute; cũng chẳng thường c&ograve;n như &yacute; nguyện m&atilde;i thế đ&acirc;u!</div>
<div>Tất cả ph&aacute;p hữu vi, nếu l&agrave; &aacute;c ph&aacute;p, l&agrave; tội tạo t&aacute;c (appunn&agrave;bhi sankh&agrave;ra), cấu tạo n&ecirc;n th&acirc;n t&acirc;m v&agrave; cảnh giới trong bốn đường dữ l&agrave;: địa ngục, ngạ quỉ, s&uacute;c sanh, a-tu-la. Vậy c&aacute;c thầy h&atilde;y cố gắng g&igrave;n giữ th&acirc;n khẩu &yacute;, ngăn giữ &aacute;c hạnh để khỏi chịu quả b&aacute;o đau khổ về sau.</div>
<div>Tất cả ph&aacute;p hữu vi, nếu l&agrave; thiện ph&aacute;p th&ugrave; thắng, l&agrave; v&ocirc; k&yacute; hay bất động tạo t&aacute;c (ananjabhi sankh&agrave;ra); l&agrave; nh&acirc;n của tầng trời sắc giới v&agrave; v&ocirc; sắc giới của c&aacute;c bậc tu h&agrave;nh đ&atilde; đắc tứ thiền hay tứ kh&ocirc;ng; cấu tạo n&ecirc;n th&acirc;n t&acirc;m c&otilde;i trời phạm thi&ecirc;n hữu sắc v&agrave; phạm thi&ecirc;n v&ocirc; sắc. Tuổi thọ ở đấy th&igrave; v&ocirc; lượng nhưng hết phước b&aacute;u thiền định cũng phải bị đọa lạc như thường.</div>
<div>Vậy n&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! H&atilde;y tinh tấn chuy&ecirc;n niệm, chớ qu&ecirc;n, chớ ph&oacute;ng dật, chớ giải đ&atilde;i. Tử sinh l&agrave; việc lớn. H&atilde;y r&egrave;n luyện th&acirc;n khẩu &yacute; cho thanh tịnh. H&atilde;y l&agrave;m cho sung m&atilde;n tứ v&ocirc; lượng t&acirc;m. H&atilde;y qua khỏi bờ kia, chẳng n&ecirc;n cam chịu ho&agrave;i cảnh trầm lu&acirc;n khổ đau sinh diệt nữa!&quot;</div>
<div>L&uacute;c Đấng Thập Lực (Dassap&agrave;lannana) d&ugrave;ng lời tối hậu huấn thị tỳ khưu Tăng với t&acirc;m bi mẫn như thế, biết l&agrave; ng&agrave;i sắp Tịch diệt Niết b&agrave;n, c&oacute; một số sa m&ocirc;n t&acirc;m h&atilde;y c&ograve;n ph&agrave;m, đ&atilde; kh&ocirc;ng ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với Đức Đạo sư, họ đ&atilde; chảy nước mắt kh&oacute;c than v&ocirc; c&ugrave;ng bi lụy.</div>
<div>Đức T&ograve;an Thắng Ma lại &acirc;n cần n&oacute;i th&ecirc;m rằng:</div>
<div>-&quot;N&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! H&igrave;nh như c&aacute;c thầy tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ kh&ocirc;ng c&ograve;n ai l&agrave; thầy dạy dỗ c&aacute;c thầy nữa chăng? Kh&ocirc;ng phải thế đ&acirc;u!</div>
<div>N&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! Ph&aacute;p v&agrave; Luật rất đầy đủ, Như Lai đ&atilde; gi&aacute;o giới đến c&aacute;c thầy rồi. Ba-la-đề-mộc-xoa (patimo-kkha) d&agrave;nh cho Tăng v&agrave; Ni, Như Lai đ&atilde; chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng ph&acirc;n biệt (ubhatovibhanga) rồi. Nh&acirc;n c&oacute; tội v&agrave; nh&acirc;n v&ocirc; tội Như Lai cũng đ&atilde; từng thuyết minh chi li, r&otilde; r&agrave;ng rồi. Thinh Văn ba-la-mật tuệ, Như Lai cũng đ&atilde; n&oacute;i rồi. Tuệ Đến-bờ-kia cho bậc Độc Gi&aacute;c v&agrave; bậc Ch&aacute;nh Đẳng Gi&aacute;c, Như Lai cũng đ&atilde; từng t&aacute;n dương rồi. V&agrave; n&agrave;o l&agrave; Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ ch&aacute;nh cần, Tứ như y t&uacute;c, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất gi&aacute;c chi, B&aacute;t ch&aacute;nh đạo,Thất quả, B&aacute;t định, Cửu định.. . Như Lai cũng đ&atilde; nhiều lần tuy&ecirc;n thuyết bằng những thời ph&aacute;p, đoản ng&ocirc;n, kệ ng&ocirc;n, v&iacute; dụ, so s&aacute;nh, giảng giải, ph&acirc;n t&iacute;ch ... kh&aacute;c nhau.</div>
<div>Vậy n&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! Người n&agrave;o th&ocirc;ng hiểu ph&aacute;p ấy, chứng ngộ ph&aacute;p ấy được gọi l&agrave; Thinh Văn đệ tử của Như Lai; l&agrave; người c&oacute; căn cơ mẫn tiệp, lanh lẹ, kiến tr&uacute; vững chắc, t&acirc;m giải th&oacute;at, tuệ giải th&oacute;at kh&ocirc;ng xao động.</div>
<div>N&agrave;y c&aacute;c thầy tỳ khưu! Dầu Như Lai c&oacute; diệt độ, nhưng Ph&aacute;p v&agrave; Luật ấy ch&iacute;nh l&agrave; thầy của c&aacute;c thầy, c&ograve;n ở b&ecirc;n c&aacute;c thầy, l&agrave;m nơi nương tựa v&agrave; dẫn lối cho c&aacute;c thầy. Thế th&igrave; sầu thương, bi lụy c&oacute; &iacute;ch g&igrave; khi c&aacute;c ph&aacute;p dẫu nhỏ nhiệm như mảnh l&acirc;n hư trần, to lớn như Tu-di sơn cũng đều phải bị v&ocirc; thường biến hoại?</div>
<div>Lại nữa, khi Như Lai Niết b&agrave;n rồi, &ocirc;ng Đại Ca-diếp sẽ mở hội kết tập lần đầu, tr&ugrave;ng tuy&ecirc;n lại Ph&aacute;p v&agrave; Luật cho đầy đủ, tỏ rạng l&ecirc;n hầu nhắc nhở v&agrave; mở mắt cho những tỳ khưu hư hỏng, ph&oacute;ng t&uacute;ng như &ocirc;ng Subhadda c&ugrave;ng những hoa ng&ocirc;n, lộng ngữ, xuy&ecirc;n tạc Ch&aacute;nh ph&aacute;p của ch&uacute;ng ngoại đạo.</div>
<div>Lại một trăm năm sau nữa, c&oacute; vị trưởng l&atilde;o A-la-h&aacute;n c&oacute; t&ecirc;n Yassa Kananda, v&igrave; hủy trừ lời n&oacute;i của tỳ khưu Vajjiputtaka m&agrave; mở đại hội kết tập lần thứ nh&igrave;, tr&ugrave;ng tuy&ecirc;n trọn vẹn Tam tạng Th&aacute;nh điển.</div>
<div>Thế rồi, hai trăm mười t&aacute;m năm sau kể từ khi Như Lai diệt độ, c&oacute; t&ocirc;n giả Moggaliputtatissa kết tập lần thứ ba, loại bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại gi&aacute;o, giữ nguy&ecirc;n lời dạy chơn truyền của Như Lai y như lần thứ nhất v&agrave; lần thứ nh&igrave;. Sau đ&oacute; nữa, tỳ khưu Mahinda, một vị Th&aacute;nh Tăng, vốn l&agrave; ho&agrave;ng tử con của vua A-dục, đ&atilde; đem ba tạng kinh truyền Ch&aacute;nh ph&aacute;p v&agrave;o xứ T&iacute;ch-lan (Jamp&agrave;nid&igrave;pa).</div>
<div>V&agrave; khỏang chừng năm trăm năm sau kể từ h&ocirc;m nay, c&oacute; một đức vua t&ecirc;n l&agrave; Mi-lan-đ&agrave;, c&oacute; nhiều phước duy&ecirc;n th&ugrave; thắng (abhinih&agrave;ra) đ&atilde; tạo trữ từ xưa, d&ugrave;ng những c&acirc;u hỏi rất cao si&ecirc;u, vi tế, sắc b&eacute;n bởi năng lực tr&iacute; tuệ của m&igrave;nh để vấn đạo, bức b&aacute;ch c&aacute;c sa-m&ocirc;n, b&agrave;-la-m&ocirc;n trong to&agrave;n c&otilde;i Di&ecirc;m-ph&ugrave; n&agrave;y, l&agrave;m cho họ phải trốn v&agrave;o rừng s&acirc;u.</div>
<div>Khi ấy, c&oacute; một vị tỳ khưu t&ecirc;n l&agrave; Na-ti&ecirc;n, c&oacute; tr&iacute; tuệ si&ecirc;u ph&agrave;m, đ&atilde; giải đ&aacute;p dễ d&agrave;ng những c&acirc;u hỏi, ph&aacute; nghi những nạn vấn cho đức vua Mi-lan-đ&agrave; bằng nhiều c&aacute;ch ph&acirc;n t&iacute;ch thiện xảo, nhiều v&iacute; dụ sinh động, cụ thể l&agrave;m cho bậc minh qu&acirc;n v&ocirc; c&ugrave;ng h&agrave;i l&ograve;ng. Nhờ vậy, Ph&aacute;p v&agrave; Luật của Như Lai đ&atilde; kh&ocirc;ng lu mơ, m&agrave; tr&aacute;i lại, c&agrave;ng th&ecirc;m tỏ rạng, được tr&acirc;n trọng bảo lưu, truyền thừa tr&ecirc;n thế gian tr&ograve;n đủ 5.000 năm.&quot;</div>
<div>Như thế, vua Mi-lan-đ&agrave; v&agrave; đại đức Na-ti&ecirc;n với những c&acirc;u hỏi đ&aacute;p giữa họ đ&atilde; được Đức Thế T&ocirc;n ti&ecirc;n tri sẵn trước khi ng&agrave;i nhập diệt.</div>
<div>Người ta n&oacute;i rằng nước của năm con s&ocirc;ng lớn của xứ Ấn-độ tu&ocirc;n chảy về biển bao nhi&ecirc;u lượng nước th&igrave; những c&acirc;u hỏi của vua Mi-lan-đ&agrave; cũng tu&ocirc;n chảy li&ecirc;n mi&ecirc;n, dồn dập kh&ocirc;ng ngưng nghỉ như vậy. Tuy nhi&ecirc;n, nước của năm con s&ocirc;ng lớn ra đến biển th&igrave; nằm y&ecirc;n trong biển, h&ograve;a tan trong biển, được biển kết nạp, dung chứa một c&aacute;ch b&igrave;nh thản như chẳng c&oacute; vấn đề g&igrave; phải bận t&acirc;m. Cũng vậy, biển cả được v&iacute; như tr&iacute; tuệ si&ecirc;u ph&agrave;m, v&ocirc; lượng của đại đức Na-ti&ecirc;n. Do vậy, những c&acirc;u hỏi d&ugrave; kh&uacute;c mắc, d&ugrave; đặt bẫy, d&ugrave; s&acirc;u rộng, d&ugrave; vi tế thế n&agrave;o của vua Mi-lan-đ&agrave;, đều được ng&agrave;i Na-ti&ecirc;n sẵn s&agrave;ng giải đ&aacute;p r&agrave;nh rẽ, kh&uacute;c chiết bằng nhiều c&aacute;ch kh&aacute;c nhau. Một ngọn đ&egrave;n cực lớn, &aacute;nh s&aacute;ng quang minh chiếu diệu soi tỏ v&agrave;o c&aacute;c chỗ tối tăm, hang h&oacute;c s&acirc;u k&iacute;n như thế n&agrave;o th&igrave; tr&iacute; tuệ của đại đức Na-ti&ecirc;n cũng soi tỏ v&agrave;o b&oacute;ng tối</div>
<div>ho&agrave;i nghi, kiến thức đa diện của đức vua Mi-lan-đ&agrave; y như thế ấy.</div>
<div>Quả thật, cuộc vấn đ&aacute;p của hai bậc t&agrave;i đức đ&atilde; chứa chan sự thật, triết l&yacute;, tư tưởng v&agrave; cả những &yacute; nghĩa nhiệm mầu; khả dĩ nối được ngọn đ&egrave;n Ph&aacute;p Bảo giữa c&otilde;i m&ecirc; đồ, vọng tưởng. Sự tranh biện v&agrave; lập luận minh bạch, kh&uacute;c chiết của hai ng&agrave;i c&oacute; sức hấp dẫn phi thường, l&agrave;m cho người nghe, người đọc ph&aacute;t sanh phỉ lạc chưa từng c&oacute;.</div>
<div style="text-align: center;">---o0o---</div>

I. PHẦN DẪN NHẬP

01. Ngoại thuyết (Bàhirakathà)
Sau khi Đức Thế Tôn tuyên bố sắp nhập Niết bàn, ngài cùng với một số đông tỳ khưu Tăng đến thành Kusinàra thuộc quốc độ Malla. Đến khu rừng mát mẻ, dừng lại dưới hai cội cây sàla tươi đẹp với bốn nhánh vươn cao và tỏa rộng, hoa nở rực rỡ và ngạt ngào hương, ngài bảo tôn giả Ananda xếp y tăng-già-lê rồi nói:
- Như Lai sẽ Niết bàn ở đây!
Thế rồi, Đức Thế Tôn nằm nghiêng lưng trên tảng đá bằng phẳng, đầu quay về phía bắc, mặt quay về phía tây. Chư tỳ khưu Tăng ngồi vòng quanh yên lặng như một rừng thiền định. Giữa tiếng chim ríu rít, vài cánh hoa rơi khẽ, bài pháp sau đây đã được Đấng Giác ngộ thuyết lên:
-"Này các thầy tỳ khưu! Như Lai nhắc nhở và căn dặn các thầy như vầy: tất cả pháp hữu vi đều không chắc thật, không bền vững. Tất cả các pháp hữu vi dầu thô thiển hay vi tế đều bị sự tác động của vô thường, biến hoại, đổi khác.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp, là phước tạo tác (punnàbhi), cấu tạo nên thân tâm của người và trời; nói cách khác, là nhân sanh sáu cảnh trời dục giới hoặc được làm người có phước báu sắc thân xinh đẹp, ít bệnh tật, ít khổ đau, nhưng nó cũng chẳng thường còn như ý nguyện mãi thế đâu!
Tất cả pháp hữu vi, nếu là ác pháp, là tội tạo tác (appunnàbhi sankhàra), cấu tạo nên thân tâm và cảnh giới trong bốn đường dữ là: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, a-tu-la. Vậy các thầy hãy cố gắng gìn giữ thân khẩu ý, ngăn giữ ác hạnh để khỏi chịu quả báo đau khổ về sau.
Tất cả pháp hữu vi, nếu là thiện pháp thù thắng, là vô ký hay bất động tạo tác (ananjabhi sankhàra); là nhân của tầng trời sắc giới và vô sắc giới của các bậc tu hành đã đắc tứ thiền hay tứ không; cấu tạo nên thân tâm cõi trời phạm thiên hữu sắc và phạm thiên vô sắc. Tuổi thọ ở đấy thì vô lượng nhưng hết phước báu thiền định cũng phải bị đọa lạc như thường.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Hãy tinh tấn chuyên niệm, chớ quên, chớ phóng dật, chớ giải đãi. Tử sinh là việc lớn. Hãy rèn luyện thân khẩu ý cho thanh tịnh. Hãy làm cho sung mãn tứ vô lượng tâm. Hãy qua khỏi bờ kia, chẳng nên cam chịu hoài cảnh trầm luân khổ đau sinh diệt nữa!"
Lúc Đấng Thập Lực (Dassapàlannana) dùng lời tối hậu huấn thị tỳ khưu Tăng với tâm bi mẫn như thế, biết là ngài sắp Tịch diệt Niết bàn, có một số sa môn tâm hãy còn phàm, đã không ngăn được sự ưu sầu, luyến tiếc đối với Đức Đạo sư, họ đã chảy nước mắt khóc than vô cùng bi lụy.
Đức Tòan Thắng Ma lại ân cần nói thêm rằng:
-"Này các thầy tỳ khưu! Hình như các thầy tưởng rằng khi Như Lai diệt độ rồi, sẽ không còn ai là thầy dạy dỗ các thầy nữa chăng? Không phải thế đâu!
Này các thầy tỳ khưu! Pháp và Luật rất đầy đủ, Như Lai đã giáo giới đến các thầy rồi. Ba-la-đề-mộc-xoa (patimo-kkha) dành cho Tăng và Ni, Như Lai đã chỉ dạy cặn kẽ trong bộ Lưỡng phân biệt (ubhatovibhanga) rồi. Nhân có tội và nhân vô tội Như Lai cũng đã từng thuyết minh chi li, rõ ràng rồi. Thinh Văn ba-la-mật tuệ, Như Lai cũng đã nói rồi. Tuệ Đến-bờ-kia cho bậc Độc Giác và bậc Chánh Đẳng Giác, Như Lai cũng đã từng tán dương rồi. Và nào là Tứ diệu đế, Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như y túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo,Thất quả, Bát định, Cửu định.. . Như Lai cũng đã nhiều lần tuyên thuyết bằng những thời pháp, đoản ngôn, kệ ngôn, ví dụ, so sánh, giảng giải, phân tích ... khác nhau.
Vậy này các thầy tỳ khưu! Người nào thông hiểu pháp ấy, chứng ngộ pháp ấy được gọi là Thinh Văn đệ tử của Như Lai; là người có căn cơ mẫn tiệp, lanh lẹ, kiến trú vững chắc, tâm giải thóat, tuệ giải thóat không xao động.
Này các thầy tỳ khưu! Dầu Như Lai có diệt độ, nhưng Pháp và Luật ấy chính là thầy của các thầy, còn ở bên các thầy, làm nơi nương tựa và dẫn lối cho các thầy. Thế thì sầu thương, bi lụy có ích gì khi các pháp dẫu nhỏ nhiệm như mảnh lân hư trần, to lớn như Tu-di sơn cũng đều phải bị vô thường biến hoại?
Lại nữa, khi Như Lai Niết bàn rồi, ông Đại Ca-diếp sẽ mở hội kết tập lần đầu, trùng tuyên lại Pháp và Luật cho đầy đủ, tỏ rạng lên hầu nhắc nhở và mở mắt cho những tỳ khưu hư hỏng, phóng túng như ông Subhadda cùng những hoa ngôn, lộng ngữ, xuyên tạc Chánh pháp của chúng ngoại đạo.
Lại một trăm năm sau nữa, có vị trưởng lão A-la-hán có tên Yassa Kananda, vì hủy trừ lời nói của tỳ khưu Vajjiputtaka mà mở đại hội kết tập lần thứ nhì, trùng tuyên trọn vẹn Tam tạng Thánh điển.
Thế rồi, hai trăm mười tám năm sau kể từ khi Như Lai diệt độ, có tôn giả Moggaliputtatissa kết tập lần thứ ba, loại bỏ tất cả tư tưởng lai tạp của ngoại giáo, giữ nguyên lời dạy chơn truyền của Như Lai y như lần thứ nhất và lần thứ nhì. Sau đó nữa, tỳ khưu Mahinda, một vị Thánh Tăng, vốn là hoàng tử con của vua A-dục, đã đem ba tạng kinh truyền Chánh pháp vào xứ Tích-lan (Jampànidìpa).
Và khỏang chừng năm trăm năm sau kể từ hôm nay, có một đức vua tên là Mi-lan-đà, có nhiều phước duyên thù thắng (abhinihàra) đã tạo trữ từ xưa, dùng những câu hỏi rất cao siêu, vi tế, sắc bén bởi năng lực trí tuệ của mình để vấn đạo, bức bách các sa-môn, bà-la-môn trong toàn cõi Diêm-phù này, làm cho họ phải trốn vào rừng sâu.
Khi ấy, có một vị tỳ khưu tên là Na-tiên, có trí tuệ siêu phàm, đã giải đáp dễ dàng những câu hỏi, phá nghi những nạn vấn cho đức vua Mi-lan-đà bằng nhiều cách phân tích thiện xảo, nhiều ví dụ sinh động, cụ thể làm cho bậc minh quân vô cùng hài lòng. Nhờ vậy, Pháp và Luật của Như Lai đã không lu mơ, mà trái lại, càng thêm tỏ rạng, được trân trọng bảo lưu, truyền thừa trên thế gian tròn đủ 5.000 năm."
Như thế, vua Mi-lan-đà và đại đức Na-tiên với những câu hỏi đáp giữa họ đã được Đức Thế Tôn tiên tri sẵn trước khi ngài nhập diệt.
Người ta nói rằng nước của năm con sông lớn của xứ Ấn-độ tu

File Attachment Icon
MiTienVanDap.jpg