Mi Tiên vấn đáp - Phần I.2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Cơ bản
Tóm tắt
Nội dung
15/03/2020
Thuộc mục:
Ảnh tiêu đề:
Ẩn ảnhHiện
Tên:
Mi Tiên vấn đáp - Phần I.2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Thẻ Keywords (67 ký tự):
Mi Tiên vấn đáp - Phần I.2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Thẻ Description (160 ký tự):
Mi tiên vấn đáp dịch bởi Hòa Thượng Giới nghiêm - Phần I.2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TIÊN
Thiết lập:Duyệt: Duyệt - Loại tin: Mới - ---Chia sẻ---
Url nguồn:
Tóm tắt (Chỉ viết ngắn gọn ko viết dài quá)

<p>Mi ti&ecirc;n vấn đ&aacute;p dịch bởi H&ograve;a Thượng Giới nghi&ecirc;m - Phần I.2.2. Chuyện về ĐẠI ĐỨC NA-TI&Ecirc;N</p>
webID: AB557DD1ED684468472584D2003D3491
<p>Trong l&uacute;c ấy, tại Hy-m&atilde;-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như c&otilde;i trời, c&oacute; mấy chục vị A-la-h&aacute;n ngụ cư, họ sống tương &aacute;i, tương k&iacute;nh, h&ograve;a hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. H&ocirc;m kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng l&atilde;o Assagutta hướng t&acirc;m đến thế gian, ng&agrave;i thấy r&otilde; chuyện đức vua Mi-lan-đ&agrave; đ&atilde; d&ugrave;ng uy lực của tr&iacute; tuệ, uy lực của kiến thức đa diện &aacute;p đảo sa m&ocirc;n, b&agrave;-la-m&ocirc;n, đạo sĩ trong c&otilde;i Di&ecirc;m-ph&ugrave;-đề. Nếu t&igrave;nh trạng ấy k&eacute;o d&agrave;i th&igrave; Phật ph&aacute;p chắc sẽ bị lu mờ v&agrave; ti&ecirc;u vong. H&ocirc;m kia, đại trưởng l&atilde;o Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-h&aacute;n tụ tập tr&ecirc;n đỉnh n&uacute;i Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đ&agrave;, t&igrave;nh trạng Chư Tăng, c&aacute;c h&agrave;ng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả ch&ugrave;a chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:<br>
- Vậy th&igrave; c&oacute; vị đại đức n&agrave;o c&oacute; thể nhiếp phục đức vua bằng tr&iacute; tuệ của m&igrave;nh, c&oacute; thể giải đ&aacute;p tất cả mọi c&acirc;u hỏi để ph&aacute; nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy r&otilde; ch&aacute;nh ph&aacute;p; l&agrave;m cho đức vua ấy ph&aacute;t khởi l&ograve;ng tin để n&acirc;ng đỡ, hộ tr&igrave; Phật gi&aacute;o th&igrave; h&atilde;y đứng l&ecirc;n nhận l&atilde;nh sứ mạng cam go n&agrave;y? Đại trưởng l&atilde;o Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội ch&uacute;ng th&aacute;nh nh&acirc;n vẫn im lặng. Ng&agrave;i biết rằng chư vị A-la-h&aacute;n n&agrave;y th&agrave;nh tựu t&acirc;m giải tho&aacute;t, tuệ giải tho&aacute;t nhưng sở học, kiến thức, tuệ ph&acirc;n t&iacute;ch, biện t&agrave;i, biện th&ocirc;ng...chẳng thể n&agrave;o so s&aacute;nh nổi với đức vua Mi-lan-đ&agrave;, b&egrave;n gợi &yacute;: -Tr&ecirc;n c&otilde;i trời Đao-lợi c&oacute; một vị thi&ecirc;n tử t&ecirc;n l&agrave; Mah&agrave;se--na, ở trong cung v&agrave;ng Ketumat&igrave;, ph&iacute;a trước bảo điện của Đế th&iacute;ch Thi&ecirc;n chủ. Vị thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena ấy c&oacute; tr&iacute; tuệ vượt bậc, c&oacute; thể đ&agrave;m luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đ&agrave;. Ng&agrave;i đại trưởng l&atilde;o vừa n&oacute;i xong, với t&acirc;m biết t&acirc;m, tất cả Th&aacute;nh ch&uacute;ng Ala-h&aacute;n đồng từ gi&atilde; tuyết l&atilde;nh, bay l&ecirc;n Đao-lợi thi&ecirc;n cung với thời gian như vi&ecirc;n lực sĩ duỗi c&aacute;nh tay. Đức Đế-th&iacute;ch tr&ocirc;ng thấy chư tỳ khưu Tăng như đ&aacute;m m&acirc;y l&agrave;nh đồng gi&aacute;ng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ b&ecirc;n ch&acirc;n đại trưởng l&atilde;o Assagutta, bạch rằng: -H&ocirc;m nay, chẳng hay qu&yacute; ng&agrave;i c&oacute; nh&acirc;n duy&ecirc;n g&igrave; m&agrave; đồng v&acirc;n tập về tr&uacute; xứ của con? Con đang sẵn s&agrave;ng nghe lời dạy bảo của qu&yacute; ng&agrave;i. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta b&egrave;n kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đ&agrave; , với nỗi lo ngại sự suy t&agrave;n của gi&aacute;o ph&aacute;p, v&igrave; trong to&agrave;n c&otilde;i Di&ecirc;m-ph&ugrave;-đề chẳng ai c&oacute; khả năng đối thoại được với đức vua ấy. Vua trời Đế th&iacute;ch nghe xong, hỏi rằng:<br>
- Đức vua Mi-lan-đ&agrave; ở kinh đ&ocirc; S&agrave;gala kia, phải chăng vừa từ c&otilde;i trời Đao-lợi n&agrave;y m&agrave; sanh xuống?<br>
- Đ&uacute;ng thế! Vua trời Đế th&iacute;ch gật đầu:<br>
- Vậy th&igrave; đ&uacute;ng rồi! Tr&iacute; tuệ của đức vua Mi-lan-đ&agrave; quả thật thế gian kh&ocirc;ng c&oacute; người &quot;thứ ba&quot;! Đại trưởng l&atilde;o Assagutta mỉm cười:<br>
- Bần tăng cũng biết vậy n&ecirc;n đ&atilde; đồng quy tụ về đ&acirc;y, những mong Thi&ecirc;n chủ gi&uacute;p đỡ triệu thỉnh thi&ecirc;n tử ở trong cung v&agrave;ng Ketumat&igrave; gi&aacute;ng sanh xuống c&otilde;i trần! Chỉ c&oacute; vị thi&ecirc;n tử ấy may ra mới c&oacute; đủ tr&iacute; tuệ sắc b&eacute;n để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đ&agrave; m&agrave; cứu nguy cho ch&aacute;nh ph&aacute;p. Đế th&iacute;ch Thi&ecirc;n chủ n&oacute;i:<br>
- Con xin v&acirc;ng mệnh. Vậy xin cung thỉnh q&uacute;i ng&agrave;i c&ugrave;ng với con sang cung điện của thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena. Đến nơi, sau khi ch&agrave;o hỏi xong, Đế th&iacute;ch Thi&ecirc;n chủ giới thiệu chư vị Th&aacute;nh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đ&agrave; rồi kết luận rằng:<br>
- Qu&yacute; ng&agrave;i đ&atilde; kh&ocirc;ng quản tuổi gi&agrave; sức yếu, cỡi gi&oacute; đạp m&acirc;y l&ecirc;n đ&acirc;y với l&ograve;ng th&agrave;nh thỉnh nguyện thi&ecirc;n tử hạ sanh c&otilde;i trần, ở đấy Phật gi&aacute;o đang gặp nạn, phải nhờ tr&iacute; tuệ của thi&ecirc;n tử may ra mới phục hưng được ch&aacute;nh gi&aacute;o. Thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena nghe xong, với t&acirc;m dửng dưng nh&igrave;n ra xa đ&aacute;p:<br>
- T&acirc;u Thi&ecirc;n chủ! Hạ thần kh&ocirc;ng c&ograve;n một mảy may x&uacute;c động tham muốn g&igrave; trong việc t&aacute;i sanh kia nữa. Vả, c&otilde;i người thường bận rộn trong việc nu&ocirc;i mạng, vui &iacute;t khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thi&ecirc;n chủ rộng l&ograve;ng th&ocirc;ng cảm, hạ thần đ&atilde; ch&aacute;n sinh tử, thường mong h&oacute;a sanh v&agrave;o c&aacute;c c&otilde;i tịnh cư, đắc th&aacute;nh quả rồi Niết b&agrave;n lu&ocirc;n ở đấy. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta l&ecirc;n tiếng thuyết phục:<br>
- Thi&ecirc;n tử n&oacute;i rất đ&uacute;ng! Tử sinh đ&aacute;ng ch&aacute;n, phiền n&atilde;o n&ecirc;n l&igrave;a. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ c&ugrave;ng cốc, chuyện thế gian thật kh&ocirc;ng c&ograve;n d&iacute;nh một hạt bụi, đ&aacute;ng ra l&agrave; phải Niết b&agrave;n l&acirc;u rồi, nhưng c&ograve;n cố duy tr&igrave; thọ mạng l&agrave; v&igrave; một ch&uacute;t nh&acirc;n duy&ecirc;n với ch&aacute;nh ph&aacute;p. Phật tổ xuống trần cũng v&igrave; sự khổ đau của sanh loại. Lẽ n&agrave;o thi&ecirc;n tử lại l&agrave;m ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn v&agrave;o rừng s&acirc;u? Bao nhi&ecirc;u am thất, ch&ugrave;a chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ kh&ocirc;ng c&oacute; chỗ nhờ nương? Lẽ ra thi&ecirc;n tử phải ph&aacute;t t&acirc;m bi mẫn mới đ&uacute;ng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thi&ecirc;n l&agrave; nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải l&agrave; nơi c&oacute; thể tu tập sung m&atilde;n về phước, về tuệ, để đến chỗ giải tho&aacute;t; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, kh&ocirc;ng tu tập m&agrave; d&ograve;ng t&acirc;m vẫn tr&ocirc;i chảy về Niết b&agrave;n. Sự thật ấy thi&ecirc;n tử n&ecirc;n hiểu cho ch&iacute;nh x&aacute;c. Ch&iacute;nh ở c&otilde;i người c&oacute; khổ, c&oacute; vui, c&oacute; v&ocirc; thường, v&ocirc; ng&atilde;, v.v... thi&ecirc;n tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện qu&aacute;n để chứng ngộ đạo quả tối hậu l&agrave; sở nguyện đ&atilde; mu&ocirc;n triệu năm của thi&ecirc;n tử vậy. Lời n&oacute;i đầy đủ t&igrave;nh l&yacute;, kinh cảm từ t&acirc;m, mở phơi ch&aacute;nh đạo, l&agrave;m cho thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena v&ocirc; c&ugrave;ng phấn kh&iacute;ch, ng&agrave;i q&ugrave;y xuống dưới ch&acirc;n đại trưởng l&atilde;o Assagutta, k&iacute;nh cẩn n&oacute;i rằng:<br>
- Vậy l&agrave; ng&agrave;i đ&atilde; mở mắt v&agrave; soi tỏ con đường cho con đi, &acirc;n đức ấy con chẳng thể n&agrave;o đ&aacute;p đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ng&agrave;i hạ sanh xuống c&otilde;i trần v&igrave; lợi &iacute;ch cho bao người m&agrave; cũng v&igrave; lợi &iacute;ch cho con để con đầy đủ khả năng tuệ gi&aacute;c hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đ&agrave; v&agrave; chấn hưng gi&aacute;o ph&aacute;p. Chư vị Th&aacute;nh Tăng c&ugrave;ng Thi&ecirc;n chủ Đế th&iacute;ch v&ocirc; c&ugrave;ng h&acirc;n hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-h&aacute;n chia phước tr&iacute; theo c&aacute;ch ri&ecirc;ng của m&igrave;nh, từ gi&atilde; c&otilde;i Đao-lợi bay về tuyết l&atilde;nh Hymalaya. Khi Chư Tăng đ&atilde; quy hội đầy đủ tr&ecirc;n đỉnh n&uacute;i Yuga-ndhara, ng&agrave;i Assagutta chợt hỏi:<br>
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, c&oacute; ng&agrave;i tỳ khưu n&agrave;o vắng mặt chăng? Một vị t&acirc;u:<br>
- K&iacute;nh bạch t&ocirc;n giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ng&agrave;y trong hang động l&agrave; kh&ocirc;ng đến hội họp.<br>
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức ấy đến đ&acirc;y. Trong l&uacute;c ấy, tỳ khưu Rohana vừa xả diệt định, hướng t&acirc;m đến, biết đại hội Th&aacute;nh nh&acirc;n A-la-h&aacute;n đang cho triệu thỉnh m&igrave;nh, b&egrave;n tức khắc rời hang động, hiện diện ngay trước mặt Chư Tăng. Sau khi đảnh lễ chư vị trưởng l&atilde;o, đại đức Rohana ngồi qua một b&ecirc;n. C&aacute;c vị trưởng l&atilde;o hỏi rằng:<br>
- N&agrave;y hiền giả Rohana! Trước khi nhập định diệt, thọ tưởng bảy ng&agrave;y, hiền giả c&oacute; hướng t&acirc;m qu&aacute;n x&eacute;t việc g&igrave; sẽ xảy ra trong bảy ng&agrave;y ấy kh&ocirc;ng? Đại đức Rohana bước ra, quỳ bạch:<br>
- Thưa qu&yacute; ng&agrave;i trưởng l&atilde;o, v&igrave; kh&ocirc;ng qu&aacute;n x&eacute;t n&ecirc;n con kh&ocirc;ng biết. Chư vị trưởng l&atilde;o ngồi im lặng. Một vị trưởng l&atilde;o n&oacute;i rằng:<br>
- V&igrave; kh&ocirc;ng biết cho n&ecirc;n kh&ocirc;ng cố &yacute;, kh&ocirc;ng cố t&igrave;nh; kh&ocirc;ng cố &yacute;, kh&ocirc;ng cố t&igrave;nh vậy kh&ocirc;ng c&oacute; tội. Đại đức trưởng l&atilde;o Assagutta nh&egrave; nhẹ gật đầu. Một vị trưởng l&atilde;o lại n&oacute;i:<br>
- Trong l&uacute;c ch&aacute;nh gi&aacute;o đang gặp đại nạn, bần tăng đề nghị từ nay trước khi thọ hưởng hạnh ph&uacute;c giải tho&aacute;t, dầu thời hạn 3 ng&agrave;y, q&uacute;i ng&agrave;i cũng n&ecirc;n qu&aacute;n x&eacute;t việc g&igrave; sẽ xảy ra trong thời gian ấy. Chư Tăng đồng &yacute; &yacute; kiến ấy bằng c&aacute;ch l&agrave;m thinh. Đại đức Rohana t&acirc;u:<br>
- Thưa q&uacute;y ng&agrave;i trưởng l&atilde;o, con c&oacute; phạm tội, tội g&acirc;y ra d&ugrave; kh&ocirc;ng cố &yacute;; vậy con xin nhận h&igrave;nh phạt do Tăng quyết định, h&agrave;nh phạt tương đương với tội &quot;kh&ocirc;ng cố &yacute;&quot; ấy! Chư Tăng đồng nở nụ cười h&agrave;m tiếu, im lặng. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta hỏi:<br>
- N&agrave;y hiền giả Rohana! Trong mười ph&aacute;p ba-la-mật, hiền giả th&agrave;nh tựu chưa được thuần thục, vi&ecirc;n m&atilde;n l&agrave; ba-la-mật n&agrave;o?<br>
- Thưa t&ocirc;n giả k&iacute;nh mến! Ba-la-mật k&eacute;m nhất của con l&agrave; tinh tấn v&agrave; nhẫn nại. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta hội &yacute; với c&aacute;c vị trưởng l&atilde;o một l&aacute;t rồi n&oacute;i với đại ch&uacute;ng rằng:<br>
- Ở xứ Katangala, ph&iacute;a xa dưới ch&acirc;n ngọn tuyết l&atilde;nh n&agrave;y, c&oacute; người b&agrave;-lam&ocirc;n t&ecirc;n l&agrave; Sonuttara, sẽ sanh hạ một đứa con t&ecirc;n l&agrave; Na-ti&ecirc;n, hậu th&acirc;n của thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena. Vậy cảm phiền đại đức Rohana h&atilde;y d&ugrave;ng hạnh ba-la-mật tinh tấn v&agrave; nhẫn nại ấy đi gieo duy&ecirc;n, tr&igrave; b&igrave;nh khất thực nơi nh&agrave; b&agrave;-la-m&ocirc;n ấy, cho đủ kỳ hạn bảy năm v&agrave; mười th&aacute;ng. Sau đ&oacute; t&igrave;m c&aacute;ch độ cho trẻ Nati&ecirc;n xuất gia. Đấy ch&iacute;nh l&agrave; h&igrave;nh phạt cao thượng m&agrave; t&ocirc;i đề nghị d&agrave;nh cho ng&agrave;i Rohana, chẳng hay Chư Tăng c&oacute; chuẩn y kh&ocirc;ng? Chư Th&aacute;nh Tăng thảy đều im lặng chấp thuận. Đại đức Rohana q&ugrave;y bạch:<br>
- H&igrave;nh phạt ấy con rất hoan hỷ, nhờ vậy, con sẽ bổ sung được c&ocirc;ng hạnh bala-mật của ch&iacute;nh con.</p>
<p>* * *</p>
<p>Đấy l&agrave; thời m&agrave; thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena rời khỏi thi&ecirc;n cung, g&aacute; v&agrave;o thai b&agrave; vợ của &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara, l&agrave; hương trưởng của xứ Katagala. Ngay l&uacute;c ấy, thế gian xuất hiện ba hiện tượng lạ thường:<br>
- Tất cả kh&iacute; giới ph&aacute;t l&ecirc;n ch&oacute;i s&aacute;ng.<br>
- Kh&ocirc;ng phải m&ugrave;a đ&ocirc;ng m&agrave; mưa tuyết rơi.<br>
- Khắp tr&ecirc;n kh&ocirc;ng trung nổi l&ecirc;n những tiếng vang động. C&aacute;c nh&agrave; tinh th&ocirc;ng điềm triệu b&egrave;n giải rằng:<br>
- Kh&iacute; giới ph&aacute;t s&aacute;ng l&agrave; sẽ c&oacute; một cuộc chiến tranh sắp xảy ra , nhưng l&agrave; cuộc chiến tranh , luận tranh do kh&iacute; giới kiến thức v&agrave; tr&iacute; tuệ ch&oacute;i s&aacute;ng.<br>
- Kh&ocirc;ng phải m&ugrave;a đ&ocirc;ng m&agrave; mưa tuyết rơi l&agrave; một hiện tượng nghịch l&yacute;, đảo lộn sự tuần h&ograve;an của vũ trụ, vậy th&igrave; phải c&oacute; một nh&acirc;n c&aacute;ch phi ph&agrave;m, người m&agrave; kh&ocirc;ng phải người xuất hiện tr&ecirc;n trần thế.<br>
- Sự xuất hiện của vị ấy, đấng ấy, kh&ocirc;ng những chỉ lợi &iacute;ch cho con người m&agrave; c&ograve;n lợi &iacute;ch cho rất nhiều c&otilde;i trời. Về phần đại đức Rohana, sau khi thọ nhận h&igrave;nh phạt cao thượng, ng&agrave;i bộ h&agrave;nh đến xứ Katangala. Sau khi t&igrave;m hiểu d&acirc;n t&igrave;nh, ng&agrave;i biết rằng, th&ocirc;n l&agrave;ng n&agrave;y l&agrave; xứ sở ngoại gi&aacute;o rất thịnh h&agrave;nh. Muốn sống được ở đ&acirc;y, h&oacute;a đạo ở đ&acirc;y th&igrave; ng&agrave;i phải ki&ecirc;n tr&igrave; tinh tấn v&agrave; nhẫn nại bất thối chuyển. T&igrave;m được một khu rừng m&aacute;t mẻ tốt tươi, kh&ocirc;ng gần m&agrave; cũng kh&ocirc;ng xa x&oacute;m l&agrave;ng, đại đức Rohana chuẩn bị một cuộc ngụ cư l&acirc;u d&agrave;i. Sau khi thu xếp được chỗ ở dưới b&oacute;ng hai t&agrave;n c&acirc;y đại thụ, trong một động đ&aacute; thi&ecirc;n nhi&ecirc;n, đại đức Rohana lấy cỏ tranh kết tọa cụ rồi đi v&agrave;o đại định, nghỉ ngơi dưỡng sức. Mấy h&ocirc;m sau, xả diệt định khi vầng th&aacute;i dương vừa l&oacute; dạng ở ch&acirc;n trời, đại đức Rohana đắp y mang b&aacute;t hướng đến l&agrave;ng Katangala. Rồi tuần tự nh&agrave; n&agrave;y sang nh&agrave; kia cho đến gia đ&igrave;nh &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara; nhưng ở đ&acirc;u cũng bị đ&oacute;ng cửa hoặc đưa mắt nh&igrave;n hờ hững, khinh thị, chối từ...Mỉm nụ cười của bậc Th&aacute;nh ở trong t&acirc;m, đại đức Rohana trở lại khu rừng u tĩnh của m&igrave;nh, kiếm l&aacute; c&acirc;y, tr&aacute;i c&acirc;y ăn tạm rồi v&agrave;o động đ&aacute; thọ hưởng hạnh ph&uacute;c giải tho&aacute;t... Những ng&agrave;y h&ocirc;m sau đều như vậy, với khu&ocirc;n mặt từ bi, hiền h&ograve;a, với bước đi thanh tho&aacute;t, trầm tĩnh, đại đức Rohana xuất hiện trước cửa mọi nh&agrave;; rồi lại với b&aacute;t kh&ocirc;ng, nhận l&atilde;nh những đ&ocirc;i mắt thiếu thiện cảm, v&agrave;i lời n&oacute;i xa gần chỉ tr&iacute;ch, phỉ b&aacute;ng... rồi lại lặng lẽ đi về, ăn l&aacute; c&acirc;y, tr&aacute;i c&acirc;y v&agrave; thiền định. Cuộc sống đều đặn như vậy tr&ocirc;i qua, c&aacute;c gia đ&igrave;nh trong l&agrave;ng lần lượt thương mến, qu&yacute; trọng vị sa m&ocirc;n hiền l&agrave;nh, họ c&uacute;ng dường cơm, sữa, đường, mật ong...; v&agrave; bao giờ nhận được vật thực g&igrave;, ng&agrave;i đều đọc tụng l&ecirc;n một lời ph&uacute;c ch&uacute;c ngắn rồi bước sang một nh&agrave; kh&aacute;c. D&ugrave; nắng n&oacute;ng nung người, mưa gi&oacute; b&atilde;o b&ugrave;ng hay đ&ocirc;ng h&agrave;n tuyết rơi; đại đức Rohana vẫn tinh tấn, chuy&ecirc;n cần, nhẫn nại, xuất hiện trước cửa mọi nh&agrave; như một chiếc đồng hồ ch&iacute;nh x&aacute;c nhất. Ng&agrave;i kh&ocirc;ng hề bỏ một ng&agrave;y trong suốt 7 năm 10 th&aacute;ng r&ograve;ng r&atilde; như thế. Cả l&agrave;ng Katangala đều được đại đức Rohana cảm h&oacute;a, thỉnh thoảng c&oacute; v&agrave;i gia đ&igrave;nh thỉnh ng&agrave;i về nh&agrave; để b&aacute;t v&agrave; xin được nghe ph&aacute;p. Đặc biệt, gia đ&igrave;nh &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara vẫn đ&oacute;ng k&iacute;n cửa trước bước ch&acirc;n của ng&agrave;i suốt bảy năm mười th&aacute;ng, đại đức Rohana kh&ocirc;ng hề nhận được dầu chỉ một lời n&oacute;i dễ nghe, một biểu hiện th&acirc;n thiện, một sự k&iacute;nh trọng x&atilde; giao n&agrave;o nơi nh&agrave; người b&agrave;-la-m&ocirc;n ấy. Một v&aacute; cơm, một muỗng ch&aacute;o, m
ột c&aacute;i b&aacute;nh... lại c&agrave;ng kh&ocirc;ng! Ng&agrave;i chỉ nhận được lời chưởi ch&oacute;, mắng m&egrave;o, lời rầy la con c&aacute;i, lời th&ocirc; lỗ cộc cằn, lời n&oacute;i đ&acirc;m x&oacute;c, cạnh kh&oacute;e, chửi mắng, phỉ b&aacute;ng v.v... H&ocirc;m kia, theo lệ thường, đại đức Rohana &ocirc;m b&aacute;t đứng trước ng&ocirc;i nh&agrave; ấy, gia chủ b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara đi vắng, một người n&ocirc; bộc cảm thấy tội nghiệp l&eacute;n bước ra n&oacute;i nhỏ nhẹ rằng:<br>
- Bạch ng&agrave;i, xin ng&agrave;i vui l&ograve;ng đi độ thực nơi kh&aacute;c, khổ th&acirc;n ng&agrave;i th&ocirc;i, gia đ&igrave;nh n&agrave;y họ kh&ocirc;ng d&acirc;ng c&uacute;ng ch&uacute;t g&igrave; đ&acirc;u. Nghe được vậy, đại đức Rohana hoan hỷ mỉm cười dời ch&acirc;n đi. Sau khi khất thực vừa đủ d&ugrave;ng, ng&agrave;i trở lại khu rừng. B&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara sau c&ocirc;ng việc trở về, gặp ng&agrave;i ở giữa đường, cất giọng mỉa mai:<br>
- N&agrave;y ng&agrave;i tu sĩ, s&aacute;ng nay đứng trước cửa nh&agrave; t&ocirc;i, chắc ng&agrave;i c&oacute; nhận được ch&uacute;t g&igrave; đ&oacute; chứ? Đại đức Rohana cất lời nh&atilde; nhặn:<br>
- Thưa gia chủ q&uacute;i mến! Cảm ơn lời ch&agrave;o hỏi, s&aacute;ng nay, quả thật bần tăng c&oacute; nhận được! Nghe vậy b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara tức giận, hối hả bước về, k&ecirc;u cả nh&agrave; ra hạch hỏi xem ai l&agrave; người cả gan tr&aacute;i &yacute; &ocirc;ng, đem d&acirc;ng c&uacute;ng vật thực cho &ocirc;ng sa m&ocirc;n. Khi biết rằng, chẳng c&oacute; ai đem cho g&igrave; cả, &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n giận run lẩy bẩy: &quot;ho&aacute; ra l&agrave; &ocirc;ng n&agrave;y n&oacute;i dối, ta sẽ mặt đối mặt chỉ tr&iacute;ch &ocirc;ng ta một phen.&quot; S&aacute;ng mai, vừa thấy b&oacute;ng đại đức Rohana, b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara đ&atilde; đứng chặn ở đầu ng&otilde;, k&ecirc;u mọi người trong x&oacute;m ra chứng kiến, rồi &ocirc;ng ta chất vấn:<br>
- &Ocirc;ng thầy tu kia, h&ocirc;m qua, ở tại đ&acirc;y, chẳng c&oacute; ai để b&aacute;t c&uacute;ng dường g&igrave; cho &ocirc;ng cả, thế tại sao gặp t&ocirc;i, &ocirc;ng lại n&oacute;i dối l&agrave; &quot;c&oacute; nhận được&quot;? &quot;c&oacute; nhận được&quot; c&aacute;i g&igrave; n&agrave;o, trước mặt b&agrave; con lối x&oacute;m, &ocirc;ng h&atilde;y n&oacute;i r&otilde; cho t&ocirc;i nghe? Đại đức Rohana điềm đạm n&oacute;i:<br>
- Thưa gia chủ, bần tăng kh&ocirc;ng hề n&oacute;i dối, quả thật, h&ocirc;m qua bần tăng c&oacute; nhận được.<br>
- Gia đ&igrave;nh t&ocirc;i chẳng ai cho th&igrave; &ocirc;ng nhận được g&igrave;? Tu h&agrave;nh m&agrave; n&oacute;i dối thế sao? Đại đức Rohana ngước nh&igrave;n mọi người xung quanh với tư th&aacute;i trầm thản rồi n&oacute;i với b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara:<br>
- Gia chủ h&atilde;y b&igrave;nh tĩnh nghe bần tăng n&oacute;i đ&acirc;y. Bần tăng đến ng&ocirc;i l&agrave;ng n&agrave;y t&iacute;nh đến nay l&agrave; bảy năm mười th&aacute;ng. Suốt trong thời gian ấy, bần tăng đều đặn đi khất thực mỗi ng&agrave;y, kh&ocirc;ng bỏ một ng&agrave;y, d&ugrave; thời tiết khắc nghiệt thế n&agrave;o chăng nữa. Nhờ ơn Phật, b&agrave; con trong l&agrave;ng đ&atilde; khởi t&iacute;n t&acirc;m, hộ tr&igrave; vật thực cơm ch&aacute;o đầy đủ. Nhưng ri&ecirc;ng gia đ&igrave;nh gia chủ đ&acirc;y, gần ba ng&agrave;n ng&agrave;y ấy, bần tăng vẫn ki&ecirc;n tr&igrave; khất thực<br>
- m&agrave; bần tăng kh&ocirc;ng hề nhận được một muỗng ch&aacute;o, một v&aacute; cơm hoặc một ch&uacute;t vật thực d&iacute;nh tr&ecirc;n đầu ngọn cỏ kusa! Cho ch&iacute; một lời x&atilde; giao, một lời n&oacute;i nhỏ nhẹ, dễ nghe... cũng kh&ocirc;ng c&oacute;! Lỗ tai bần tăng chỉ nhận được những lời cay chua, độc địa, những lời n&oacute;i cạnh kh&oacute;e, &aacute;c khẩu, &aacute;c ngữ...; thế nhưng, s&aacute;ng h&ocirc;m qua, bần tăng c&oacute; nghe được một lời n&oacute;i nh&atilde; nhặn, lễ độ... của một người tớ g&aacute;i, cho n&ecirc;n bần tăng rất hoan hỷ, rất cảm ơn. Vậy th&igrave; thưa gia chủ, bần tăng n&oacute;i với ng&agrave;i l&agrave; &quot;bần tăng c&oacute; nhận được&quot; l&agrave; đ&uacute;ng với sự thực, đ&acirc;u phải l&agrave; lời n&oacute;i dối? Nghe xong c&acirc;u chuyện, b&agrave; con trong x&oacute;m rất cảm động trước lời n&oacute;i của vị ch&acirc;n tu. Ri&ecirc;ng &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonut--tara th&igrave; kinh cảm đến từng ch&acirc;n tơ kẻ t&oacute;c, l&ograve;ng bừng bừng hoan hỷ, nghĩ rằng: &quot;Chỉ với một lời n&oacute;i dễ nghe m&agrave; &ocirc;ng ta đ&atilde; tỏ vẻ cảm ơn như thế ấy, huống hồ ta th&agrave;nh k&iacute;nh c&uacute;ng dường cơm b&aacute;nh vật thực thượng vị th&igrave; &ocirc;ng ta sẽ thỏa th&iacute;ch v&agrave; tri &acirc;n gia đ&igrave;nh ta đến chừng n&agrave;o?&quot; Nghĩ thế xong, b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara chăm ch&uacute; quan s&aacute;t đại đức Rohana, ngạc nhi&ecirc;n l&agrave;m sao, khi &ocirc;ng thấy vị sa m&ocirc;n kia sao thanh khiết qu&aacute;, đức hạnh qu&aacute;. Khu&ocirc;n mặt vị ấy như tỏa ra &aacute;nh s&aacute;ng dịu hiền, đ&ocirc;i mắt từ bi, d&aacute;ng dấp ung dung, si&ecirc;u tho&aacute;t, tự tại, lục căn bu&ocirc;ng xả v&agrave; nh&agrave;n tịnh. Một niềm tịnh t&iacute;n d&acirc;ng l&ecirc;n, một niềm hỷ lạc d&acirc;ng l&ecirc;n, &ocirc;ng b&agrave;-la-m&ocirc;n b&egrave;n bước đến, quỳ mọp b&ecirc;n ch&acirc;n đại đức Rohana, k&iacute;nh cẩn bạch rằng:<br>
- H&ocirc;m nay con đ&atilde; c&oacute; t&acirc;m trong sạch với ng&agrave;i, xin ng&agrave;i h&atilde;y khoan thứ những tội lỗi do con đ&atilde; mạo phạm. Vậy bắt đầu từ đ&acirc;y về sau, xin ng&agrave;i v&igrave; l&ograve;ng bi mẫn h&atilde;y thương tưởng đến con, tế độ con bằng c&aacute;ch cho con được c&uacute;ng dường mỗi bữa! Đại đức Rohana im lặng nhận lời. * * * Khi c&acirc;u chuyện xảy ra ở tr&ecirc;n, đồng tử Na-ti&ecirc;n do thi&ecirc;n tử Mah&agrave;sena hạ sanh, sau mười th&aacute;ng trong thai b&agrave;o, b&acirc;y giờ đ&atilde; được bảy tuổi. B&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara cho mời một thầy ba-la-m&ocirc;n uy&ecirc;n b&aacute;c đến dạy học. Họ sữa sọan b&agrave;n ghế, trải những tấm thảm qu&yacute; để chuẩn bị cho lớp học khai t&acirc;m. Nh&igrave;n vị đồng tử tướng mạo phi ph&agrave;m, thầy A-đồ-l&ecirc; soạn ba bộ kinh Phệ-đ&agrave; rồi lần lươt đọc tụng l&ecirc;n, xem thử tr&iacute; nhớ của trẻ như thế n&agrave;o! Hễ cứ đọc một đọan, thầy bảo Na-ti&ecirc;n đọc lại v&agrave; Na-ti&ecirc;n đọc kh&ocirc;ng sai một chữ. Kinh ngạc, thầy A-đồ-l&ecirc; đọc tiếp. Suốt nửa th&aacute;ng, ba bộ kinh Phệ-đ&agrave; mới đọc xong v&agrave; Na-ti&ecirc;n đ&atilde; thuộc nằm l&ograve;ng. Thầy A-đồ-l&ecirc; giảng giải:<br>
- Đấy l&agrave; tất cả kinh điển của giai cấp thượng đẳng b&agrave;-la-m&ocirc;n, con đường đến Phạm thể, những đức t&iacute;nh cao cả c&ugrave;ng những tri thức minh triết tr&ecirc;n đời n&agrave;y m&agrave; một con trai b&agrave;-la-m&ocirc;n th&ocirc;ng th&aacute;i phải am tường. Kỳ lạ l&agrave;m sao, con đ&atilde; học thuộc, vậy b&acirc;y giờ h&atilde;y nghe ta giảng đ&acirc;y. Nửa th&aacute;ng sau th&igrave; Na-ti&ecirc;n đ&atilde; th&ocirc;ng suốt tam Phệ-đ&agrave;, dẫu thầy A-đồ-l&ecirc; hỏi xu&ocirc;i ngược, hỏi nghĩa đen, nghĩa b&oacute;ng, ẩn dụ, đoản ng&ocirc;n,v.v... Na-ti&ecirc;n đ&atilde; trả b&agrave;i l&agrave;u l&agrave;u kh&ocirc;ng vấp v&aacute;p. Bất đồ, Na-ti&ecirc;n hỏi lại thầy:<br>
- K&iacute;nh thầy A-đồ-l&ecirc;! Tam Phệ-đ&agrave; l&agrave; ba con đường dẫn đến Phạm thể, đấng v&ocirc; thượng ch&iacute; t&ocirc;n! Tri thức của thầy th&ocirc;ng th&aacute;i như vậy, nhưng con đường thực h&agrave;nh th&igrave; như thế n&agrave;o? Thầy lựa chọn con đường n&agrave;o? Thầy b&agrave;-la-m&ocirc;n n&iacute;n lặng.<br>
- Hoặc l&agrave; thầy đ&atilde; từng thấy đấng S&aacute;ng tạo chủ, H&oacute;a sanh chủ ấy chưa? Để cho vị thầy gi&agrave; bối rối với những c&acirc;u hỏi, đồng tử Na-ti&ecirc;n đi đến gặp b&agrave;la-m&ocirc;n Sonuttara:<br>
- Thưa cha! Con kh&ocirc;ng học nữa. Tri thức Phệ-đ&agrave; thật v&ocirc; &iacute;ch v&igrave; ch&iacute;nh thầy dạy học của con cũng kh&ocirc;ng biết đấng Phạm thể ấy l&agrave; thế n&agrave;o, v&agrave; cũng chưa từng chứng nghiệm hạnh ph&uacute;c thể nhập Đấng &Acirc;y ra sao? B&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara sững người, &ocirc;ng cũng kh&ocirc;ng biết ăn n&oacute;i l&agrave;m sao với con, đ&agrave;nh n&oacute;i &aacute;t:<br>
- Nhưng con cần phải học nữa. Đồng tử Na-ti&ecirc;n lễ độ:<br>
- V&acirc;ng, thưa cha, con sẽ học, nhưng kh&ocirc;ng biết l&agrave; c&ograve;n phải học những g&igrave; nữa?<br>
- Con phải học chữ, học viết; v&agrave; cần phải học năm bộ s&aacute;ch nữa.<br>
- Thưa cha! Học chữ, học viết th&igrave; kh&ocirc;ng cần nữa, v&igrave; một th&aacute;ng nay con đ&atilde; tự học rồi. C&ograve;n năm bộ s&aacute;ch kia l&agrave; những bộ s&aacute;ch g&igrave;? B&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara lại cầu viện thầy A-đồ-l&ecirc; giảng giải về năm bộ s&aacute;ch ấy như sau: 1. Về ph&uacute;ng tụng, nghi lễ. 2. Về thi&ecirc;n văn địa l&yacute;. 3. Xem x&eacute;t thế giới, đức Iso v&agrave; sự s&aacute;ng tạo n&uacute;i s&ocirc;ng, c&acirc;y cỏ, mu&ocirc;n loại... 4. Đo&aacute;n mộng, xem tướng. 5. Vệ sinh thường thức như: rửa mặt, tắm, thọ dụng vật thực, đại tiểu tiện v.v... Đồng tử Na-ti&ecirc;n chăm ch&uacute; nghe xong, hỏi:<br>
- Thưa cha! Năm bộ s&aacute;ch ấy đ&atilde; c&oacute; viết sẵn chưa?<br>
- C&oacute; viết sẵn, v&agrave; gia đ&igrave;nh ch&uacute;ng ta cũng c&oacute; thờ năm bộ ấy.<br>
- Vậy xin cha h&atilde;y trả th&ugrave; lao hậu hĩ cho thầy dạy học của con. Bắt đầu từ nay con c&oacute; thể học được. Thế rồi, trước sự sững sờ, kinh ngạc của mọi người, đồng tử Na-ti&ecirc;n &ocirc;m năm bộ s&aacute;ch, xin ở nơi một căn nh&agrave; trống trong khu vườn xinh đẹp để đọc, nghi&ecirc;n cứu, học tập. Trọn cả bảy ng&agrave;y như vậy, Na-ti&ecirc;n chỉ rời s&aacute;ch khi d&ugrave;ng cơm v&agrave; khi ngủ. Sau khi nắm trọn vẹn cả năm bộ s&aacute;ch, Na-ti&ecirc;n bần thần suy nghĩ: -&quot; C&oacute; lợi &iacute;ch g&igrave; đ&acirc;u l&agrave; những m&ocirc;n học n&agrave;y? Ngoại trừ về vệ sinh thường thức, c&ograve;n ngo&agrave;i ra ch&uacute;ng trừu tượng, xa vời so với đời sống, sự sống của con người. N&oacute; chẳng cho ta hiểu r&otilde; về nguồn gốc của sinh tử v&agrave; nỗi khổ đau chung của sanh loại. &Ocirc;i! Thật l&agrave; rỗng kh&ocirc;ng v&agrave; ph&ugrave; phiếm thay?&quot; Suốt trong thời gian ấy, đại đức Rohana đ&atilde; lui tới thường xuy&ecirc;n nơi ng&ocirc;i nh&agrave; n&agrave;y, nhận sự c&uacute;ng dường những m&oacute;n ăn thượng vị của b&agrave;-la-m&ocirc;n Sonuttara . V&agrave; h&igrave;nh b&oacute;ng ng&agrave;i đ&atilde; trở n&ecirc;n th&acirc;n thiết, ấm c&uacute;ng cho mỗi người trong gia đ&igrave;nh. Ng&agrave;i theo d&otilde;i sự học tập v&agrave; t&acirc;m tư của đồng tử Na-ti&ecirc;n trong mỗi ng&agrave;y. Ng&agrave;i biết rằng Na-ti&ecirc;n do nhờ c&ocirc;ng hạnh v&agrave; tr&iacute; tuệ tu tập nhiều kiếp theo Ch&aacute;nh ph&aacute;p, vững chắc ch&aacute;nh kiến, n&ecirc;n những tư tưởng ngoại gi&aacute;o thật kh&oacute; tương ưng. V&agrave; hiện giờ Na-ti&ecirc;n đang ch&aacute;n nản, sầu muộn, ho&agrave;i nghi. Biết vậy, như lực sĩ với c&aacute;nh tay duỗi, đại đức Rohana đ&atilde; xuất hiện trước mặt đồng tử Na-ti&ecirc;n với dung nghi ch&oacute;i s&aacute;ng, với đ&ocirc;i mắt từ bi v&agrave; nụ cười hiền dịu. Vừa thấy ng&agrave;i, đồng tử Na-ti&ecirc;n t&acirc;m ph&aacute;t sanh phỉ lạc, h&acirc;n hoan nghĩ rằng: &quot;Ta từng thấy vị ch&acirc;n tu n&agrave;y m&agrave; chưa được đối mặt, chưa được hầu chuyện với ng&agrave;i. &Ocirc;i! Được đ&aacute;p vấn với ng&agrave;i v&agrave;i c&acirc;u chắc lợi &iacute;ch cho ta lắm.&quot; B&egrave;n k&iacute;nh cẩn n&oacute;i:<br>
- Bạch t&ocirc;n trưởng! Tại sao t&ocirc;n trưởng c&oacute; phẩm mạo v&agrave; y phục kh&aacute;c với kẻ thế? Đại đức Rohana th&acirc;n &aacute;i ngồi xuống một b&ecirc;n:<br>
- N&agrave;y con th&acirc;n! V&igrave; ta l&agrave; kẻ xuất gia!<br>
- Người xuất gia l&agrave; g&igrave;?<br>
- L&agrave; người t&igrave;nh nguyện l&igrave;a bỏ gia đ&igrave;nh, quyến thuộc, t&agrave;i sản, vợ con; sống đời đi xin ăn r&agrave;y đ&acirc;y mai đ&oacute;, chẳng c&oacute; tr&uacute; xứ nhất định, chẳng c&oacute; nh&agrave; cửa, m&aacute;i che; chỉ mang theo b&ecirc;n m&igrave;nh ba y v&agrave; c&aacute;i b&aacute;t khất thực.<br>
- Xuất gia như vậy c&oacute; lợi &iacute;ch g&igrave; kh&ocirc;ng, thưa t&ocirc;n trưởng?<br>
- C&oacute; chứ! C&oacute; lợi &iacute;ch nhiều lắm chứ con! Người xuất gia thường l&aacute;nh xa điều &aacute;c, thường bỏ dữ l&agrave;m l&agrave;nh, thường sống đời rỗng lặng, thanh tịnh, kh&ocirc;ng c&oacute; khổ đau, phiền muộn. Đồng tử Na-ti&ecirc;n suy nghĩ hồi l&acirc;u, lặng lẽ gật đầu ra chiều đ&atilde; l&atilde;nh hội, rồi hỏi tiếp:<br>
- Tại sao t&ocirc;n trưởng phải cạo bỏ r&acirc;u t&oacute;c? Đại đức Rohana &acirc;n cần giải th&iacute;ch:<br>
- Người xuất gia v&igrave; muốn sống đời giải tho&aacute;t như hư kh&ocirc;ng n&ecirc;n phải cạo bỏ r&acirc;u t&oacute;c; v&igrave; cạo bỏ r&acirc;u t&oacute;c l&agrave; muốn tr&aacute;nh tất cả những c&ocirc;ng việc bận rộn v&ocirc; &iacute;ch sau đ&acirc;y: 1. Tốn tiền v&agrave; mất th&igrave; giờ do kiếm thợ cắt t&oacute;c v&agrave; gội đầu. 2. Tốn tiền v&agrave; mất th&igrave; giờ do mua tr&acirc;m c&agrave;i t&oacute;c, bối t&oacute;c, cột t&oacute;c hoặc chải t&oacute;c. 3. Tốn tiền mua hương liệu, dầu thơm v&agrave; mất c&ocirc;ng xoa ướp. 4. Tốn tiền v&agrave; mất c&ocirc;ng mua hoa kết l&agrave;m tr&agrave;ng hoa. Ngo&agrave;i ra, muốn cho đầu t&oacute;c được đẹp người ta c&ograve;n trang điểm bằng những đồ trang sức như v&agrave;ng, bạc c&ugrave;ng những loại đ&aacute; q&uacute;y kh&aacute;c nữa. Vậy, nhờ tr&aacute;nh những bận rộn ấy m&agrave; người xuất gia c&oacute; nhiều th&igrave; giờ d&agrave;nh cho sự tu tập đ&oacute; con! Nh&egrave; nhẹ gật đầu, Na-ti&ecirc;n hỏi tiếp:<br>
- C&ograve;n tại sao lại mặc y nhuộm bằng vỏ c&acirc;y, rễ c&acirc;y?<br>
- Cũng tương tự như cạo bỏ r&acirc;u t&oacute;c vậy, nghĩa l&agrave; tr&aacute;nh những bận rộn do kiếm vải v&oacute;c, tốn tiền, tốn thời gian may v&aacute;, t&igrave;m kiếm thuốc nhuộm v.v..., &aacute;o quần đẹp như kẻ thế lại c&ograve;n tốn thời giờ sửa soạn th&acirc;n thể, vật trang điểm, vật thoa, vật thơm c&ugrave;ng những phiền phức kh&aacute;c nữa...<br>
- Con hiểu! Quả l&agrave; mất th&igrave; giờ v&agrave;o những việc ph&ugrave; phiếm ấy th&igrave; kh&ocirc;ng đ&aacute;ng t&iacute; n&agrave;o! Tất cả những lời n&oacute;i của t&ocirc;n trưởng đều rất hay, đều rất hợp với sở th&iacute;ch của con. Vậy chẳng hay t&ocirc;n trưởng c&oacute; thể chỉ dạy cho con phương ph&aacute;p tu tập cao thượng như của t&ocirc;n trưởng chăng? Đại đức Rohana mỉm cười:<br>
- C&oacute; thể được, con ạ! Nhưng c&oacute; điều kh&oacute; khăn, kh&ocirc;ng biết con c&oacute; vượt qua được chăng?<br>
- Con sẽ cố, thưa t&ocirc;n trưởng!<br>
- L&agrave; con phải dứt bỏ tất thảy c&aacute;c điều bận rộn như ta n&oacute;i ở tr&ecirc;n; nghĩa l&agrave; phải xin ph&eacute;p cha mẹ cạo bỏ r&acirc;u t&oacute;c, mặc y nhuộm bằng vỏ c&acirc;y th&ocirc; xấu cho đ&uacute;ng với phẩm mạo của người xuất gia; sống kh&ocirc;ng nh&agrave; cửa, đi theo ta mới mong thực h&agrave;nh, tu tập theo ph&aacute;p m&ocirc;n cao thượng của ta được. Nghe lời đại đức Rohana, đồng tử Na-ti&ecirc;n &ocirc;m năm bộ s&aacute;ch về trả lại tr&ecirc;n b&agrave;n thờ, ngồi lặng lẽ, buồn b&atilde;, bỏ ăn, bỏ ngủ. B&agrave;-la-m&ocirc;n khi hiểu được &yacute; định xuất gia của con trai, tự nghĩ: &quot;Nếu cho n&oacute; đi xuất gia theo vị sa m&ocirc;n khả k&iacute;nh kia cũng l&agrave; điều hay; khi lớn tuổi, kh&ocirc;n ngoan, hiểu biết, ta lại bắt về, lo g&igrave;!&quot; Thế l&agrave; đồng tử Na-ti&ecirc;n được ph&eacute;p gia đ&igrave;nh đi theo đại đức Rohana, bắt đầu con đường t&ocirc;i luyện, tu tập, hy vọng sau n&agrave;y trở n&ecirc;n một ph&aacute;p kh&iacute; đại dụng cho ch&aacute;nh ph&aacute;p thời ph&aacute;p nạn. * * * Hai thầy tr&ograve; lầm lũi đạp tuyết dầm sương nhắm hướng Hymalaya đi thẳng. Thấy đồng tử Na-ti&ecirc;n c&ograve;n qu&aacute; nhỏ sợ kh&ocirc;ng kham nổi nắng gi&oacute; đường xa n&ecirc;n đại đức Rohana cho nghĩ ch&acirc;n tại ch&ugrave;a Niya Vijamb&ugrave;vatthu để dưỡng sức. Mấy ng&agrave;y h&ocirc;m sau họ mới tới được hang động Rakkhita kỳ vĩ, nơi ẩn cư của hội ch&uacute;ng Th&aacute;nh nh&acirc;n A-la-h&aacute;n . Đồng tử Na-ti&ecirc;n thấy c&agrave;ng l&uacute;c c&agrave;ng đi s&acirc;u v&agrave;o n&uacute;i non cheo leo hiểm trở, kh&iacute; lạnh buốt xương, rất nhiều loại th&uacute; rừng hoang d&atilde; lui tới đ&oacute; đ&acirc;y, b&egrave;n cảm thấy sợ h&atilde;i. Đại đức Rohana trấn an:<br>
- Cả h&agrave;ng trăm vị ẩn sĩ đang sống rất y&ecirc;n l&agrave;nh, th&uacute; dữ ở đ&acirc;y ch&uacute;ng kh&ocirc;ng l&agrave;m hại ai cả. Họ bước v&agrave;o một hang động thi&ecirc;n nhi&ecirc;n h&ugrave;ng vĩ, kh&ocirc;ng kh&iacute; m&aacute;t mẻ tỏa ra. Rất nhiều vị Th&aacute;nh A-la-h&aacute;n ngồi y&ecirc;n lặng thiền định, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả tr&ecirc;n những tảng đ&aacute; bằng phẳng trơn tru.<br>
- Hiền giả đ&atilde; l&agrave;m xong bổn phận v&agrave; đ&atilde; về rồi đấy &agrave;, Rohana? Một vị Th&aacute;nh Tăng m&agrave;y bạc như hai vệt tuyết, người gầy kh&ocirc;, khẳng khiu nhưng cứng c&aacute;p như một cỗi t&ugrave;ng gi&agrave;, mở mắt cất tiếng hỏi. Đại đức Rohana dẫn đồng tử Na-ti&ecirc;n đến quỳ t&acirc;u:<br>
- Thưa v&acirc;ng, con đ&atilde; thi h&agrave;nh xong h&igrave;nh phạt cao thượng, v&agrave; đ&acirc;y l&agrave; đồng tử Na-ti&ecirc;n! Đại trưởng l&atilde;o quan s&aacute;t trẻ một hồi rồi n&oacute;i:<br>
- Hạnh Ba la mật tinh tấn v&agrave; nhẫn nại của hiền giả r&otilde; r&agrave;ng l&agrave; đ&atilde; th&agrave;nh tựu vi&ecirc;n m&atilde;n, bần tăng xin ch&uacute;c mừng hiền giả.<br>
- Con kh&ocirc;ng d&aacute;m!<br>
- H&igrave;nh phạt tuy đ&atilde; xong, nhưng hiền giả c&oacute; nh&acirc;n duy&ecirc;n l&agrave;m thầy h&ograve;a thượng tế độ v&agrave; l&agrave;m thầy gi&aacute;o thọ cho đồng tử Na-ti&ecirc;n nữa đấy!<br>
- Con xin v&acirc;ng! Thế rồi, buổi chiều, đồng tử Na-ti&ecirc;n được cạo t&oacute;c, mặc chiếc y th&ocirc; xấu, xuất gia l&agrave;m sa di với sự chứng minh của hội ch&uacute;ng Th&aacute;nh nh&acirc;n A-la-h&aacute;n, thầy tế độ l&agrave; h&ograve;a thượng Rohana. Sau khi l&agrave;m lễ xuất gia xong, ng&agrave;i đại trưởng l&atilde;o Assagutta v&acirc;n du về ch&ugrave;a N&igrave;yaka m&agrave; ng&agrave;i từng ở trước đ&acirc;y, c&aacute;c vị A-la-h&aacute;n kh&aacute;c chia nhau đi nhiều phương hoặc dời v&agrave;o c&aacute;c hang động s&acirc;u trong tuyết sơn. Sa di Na-ti&ecirc;n liền t&acirc;u với đại đức Rohana:<br>
- Phẩm mạo xuất gia con đ&atilde; l&agrave;m xong rồi, vậy xin t&ocirc;n trưởng chỉ gi&aacute;o cho con phương ph&aacute;p tu tập cao thượng. Đại đức Rohana nghĩ thầm: &quot;Sa di n&agrave;y c&oacute; tr&iacute; nhớ phi ph&agrave;m, hy vọng y sẽ thuộc nằm l&ograve;ng được Thắng nghĩa ph&aacute;p. Nhờ l&agrave;u th&ocirc;ng tạng Thắng nghĩa n&agrave;y, sau n&agrave;y sẽ l&agrave; kho t&agrave;ng tr&iacute; tuệ để y tranh luận với đức vua Mi-lan-đ&agrave;.&quot; Rồi ng&agrave;i n&oacute;i:<br>
- N&agrave;y Na-ti&ecirc;n con! Gi&aacute;o ph&aacute;p đầy đủ gồm c&oacute; 3 tạng, tổng cộng kinh chữ viết tr&ecirc;n l&aacute; bu&ocirc;n, số lượng rất kinh khiếp, 16 con voi k&eacute;o cũng kh&ocirc;ng hết! &Acirc;y l&agrave; tạng Kinh, tạng Luật v&agrave; tạng Thắng nghĩa ph&aacute;p hay l&agrave; Vi diệu ph&aacute;p. Bắt đầu từ h&ocirc;m nay, ta sẽ dạy con học tạng Vi diệu, l&agrave; tạng kh&oacute; nhất, con c&oacute; kham nhẫn được chăng?<br>
- Con sẽ cố gắng!<br>
- Tốt. Bắt đầu từ ng&agrave;y mai, ch&uacute;ng ta sẽ ra b&atilde;i c&aacute;t ven suối, học tại đấy! Thế rồi, tuần tự, đại đức Rohana tụng đọc, viết, cắt nghĩa bảy bộ Abhidhamma cho sa di Na-ti&ecirc;n c&ugrave;ng với những giảng giải cặn kẽ, chi tiết: Dhammasanghan&igrave;: Bộ ph&aacute;p tụ. Vibhangha: Bộ ph&acirc;n t&iacute;ch. Dh&agrave;tukath&agrave;: Bộ chất ngữ. Puggala pannati: Bộ nh&acirc;n chế định. Kath&agrave;vatthu: Bộ ngữ t&ocirc;ng. Yamaka: Bộ song đối. Patth&agrave;namah&agrave;pa karana: Bộ vị tr&iacute;. Suốt mấy năm trường sa di Na-ti&ecirc;n chuy&ecirc;n cần học Vi diệu tạng. Khi đ&atilde; học thuộc l&ograve;ng cả bảy bộ, Na-ti&ecirc;n thưa với thầy:<br>
- Bạch t&ocirc;n trưởng! Ng&agrave;i dạy cho đệ tử như vậy l&agrave; đ&atilde; qu&aacute; nhiều, chưa cần thiết phải dạy th&ecirc;m. H&atilde;y cho đệ tử suy gẫm gi&aacute;o ph&aacute;p cao si&ecirc;u n&agrave;y cho tới nơi tới chốn. Cũng trong thời gian n&agrave;y, đại đức Rohana cặn kẽ chỉ dạy cho Na-ti&ecirc;n c&aacute;ch đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang b&aacute;t; c&aacute;ch cung k&iacute;nh, lễ b&aacute;i c&aacute;c vị trưởng l&atilde;o, c&aacute;ch sống với ch&uacute;ng ở giữa rừng n&uacute;i, ở giữa phố thị, l&agrave;ng mạc v.v... Mỗi mỗi oai nghi, h&agrave;nh động, ăn n&oacute;i phải cẩn trọng, thu th&uacute;c, g&igrave;n giữ như thế n&agrave;o để cho xứng đ&aacute;ng phẩm hạnh của một sa m&ocirc;n. Na-ti&ecirc;n đ&atilde; được dạy sơ về một số giới luật như thế, th&ecirc;m một số kinh căn bản, v&agrave;i ph&aacute;p m&ocirc;n h&iacute;t thở, thiền định, thiền qu&aacute;n v.v... Khi đ&atilde; đến tuổi thiếu ni&ecirc;n, c&oacute; lẽ đ&atilde; suy gẫm s&acirc;u xa về Vi diệu tạng c&ugrave;ng với những l&yacute; nghĩa rốt r&aacute;o của n&oacute;, Na-ti&ecirc;n quỳ bạch với đại đức Rohana, xin được thuyết lại bảy bộ Vi diệu tạng trước sự chứng minh của chư tỳ khưu Tăng. Đại đức Rohana hoan hỷ bằng l&ograve;ng, với t&acirc;m truyền t&acirc;m, ng&agrave;i thỉnh mời tất cả c&aacute;c vị trưởng l&atilde;o, c&aacute;c vị Th&aacute;nh nh&acirc;n đồng quy hội tại hang động Rakkhita. Đến ng&agrave;y, đại đức Rohana trang trọng kết một bảo t&ograve;a bằng l&aacute; cỏ để cho vị ph&aacute;p sư t&iacute; hon đăng đ&agrave;n thuyết ph&aacute;p. Thế rồi, như sấm gi&oacute;ng giữa trời mưa, sa di Na-ti&ecirc;n thuyết như nước chảy m&acirc;y tr&ocirc;i từng bộ Thắng nghĩa ph&aacute;p với đầy đủ l&yacute; nghĩa s&acirc;u rộng; đầy đủ ẩn dụ, so s&aacute;nh, ph&acirc;n t&iacute;ch, đoản ng&ocirc;n, kệ ng&ocirc;n v.v... một c&aacute;ch linh hoạt, d&iacute; dỏm, sắc b&eacute;n, chưa từng được nghe. Bảy th&aacute;ng, bảy bộ kinh Vi diệu tạng mới được thuyết xong! Cử tọa, th&iacute;nh ch&uacute;ng Th&aacute;nh nh&acirc;n rất vui mừng v&igrave; t&acirc;m huyết của c&aacute;c ng&agrave;i thế l&agrave; đ&atilde; th&agrave;nh tựu bước đầu. Quả đất d&agrave;y bốn mươi do tuần rung rinh chấn động. Chư thi&ecirc;n hoan hỷ t&aacute;n dương c&ocirc;ng đức của vị sa di. Chư phạm thi&ecirc;n sắc giới cũng hết l&ograve;ng khen ngợi biện t&agrave;i của vị ph&aacute;p sư si&ecirc;u việt. Hoa Mạn-đ&agrave;-la giữa hư kh&ocirc;ng rơi xuống ng&agrave;y đ&ecirc;m c&uacute;ng dường Ph&aacute;p Bảo. L&uacute;c sa di Na-ti&ecirc;n tr&ograve;n 20 tuổi, chư vị A-la-h&aacute;n cho thọ đại giới l&agrave;m thầy tỳ kheo; rồi được đại đức Rohana đẫn đi thăm c&aacute;c ch&ugrave;a dưới ch&acirc;n n&uacute;i. H&ocirc;m kia, c&ugrave;ng thầy đi khất thực trong một ng&ocirc;i l&agrave;ng, &yacute; nghĩ sau đ&acirc;y khởi l&ecirc;n trong t&acirc;m của vị t&acirc;n tỳ kheo: &quot;Sao mấy năm nay thầy của ta kh&ocirc;ng dạy th&ecirc;m g&igrave; cho ta hết, hay ng&agrave;i chỉ biết c&oacute; bảy bộ Vi diệu tạng kia th&ocirc;i, chẳng th&ocirc;ng thuộc một gi&aacute;o ph&aacute;p n&agrave;o kh&aacute;c?&quot;. Đại đức Rohana, với t&acirc;m biết t&acirc;m, biết &yacute; nghĩ xấu quấy của Na-ti&ecirc;n, b&egrave;n mỉm cười n&oacute;i rằng:<br>
- N&agrave;y con! với t&acirc;m niệm như thế thật kh&ocirc;ng xứng đ&aacute;ng cho con, một tu sĩ xuất gia phạm hạnh. T&acirc;m niệm ấy l&agrave; ki&ecirc;u căng, ng&atilde; mạn, con c&oacute; biết thế chăng? Tỳ khưu Na-ti&ecirc;n hoảng sợ, t&oacute;c dựng ngược, nghĩ rằng: &quot;&Ocirc;i! Quả thật ta đ&atilde; quấy qu&aacute;, thầy ta quả thật l&agrave; bậc đại tr&iacute; thức, ta chẳng n&ecirc;n tự l&agrave;m hại ta bởi những &yacute; nghĩ xuẩn ngốc.&quot; Rồi Na-ti&ecirc;n quỳ mọp xuống đất, &ocirc;m ch&acirc;n bụi của đại đức Rohana:<br>
- Xin thầy từ bi x&aacute; tội cho đệ tử, đệ tử nguyện sẽ kh&ocirc;ng c&ograve;n d&aacute;m t&aacute;i phạm nữa. Đại đức Rohana lắc đầu:<br>
- Ta kh&ocirc;ng thể x&oacute;a tội ấy cho con được! Để cho Na-ti&ecirc;n quỳ xin s&aacute;m hối đ&uacute;ng ba lần, đại đức Rohana mới n&oacute;i:<br>
- Th&ocirc;i được rồi, cũng kh&ocirc;ng muộn g&igrave;. Con phải si&ecirc;ng học ph&aacute;p học cho th&agrave;nh t&agrave;i, phải đi v&agrave;o ph&aacute;p h&agrave;nh cho rốt r&aacute;o. Bao giờ con c&oacute; thể d&ugrave;ng tr&iacute; tuệ của m&igrave;nh khuất phục được đức vua Mi-lan-đ&agrave;, kinh đ&ocirc; S&agrave;gala, để nh&agrave; vua ph&aacute;t t&acirc;m trong sạch, quy ngưỡng theo Phật gi&aacute;o, th&igrave; khi ấy ta sẽ x&aacute; tội cho con. Tỳ khưu Na-ti&ecirc;n chấp tay, c&uacute;i đầu nhũn nhặn:<br>
- Bạch t&ocirc;n trưởng! L&uacute;c n&agrave;o l&agrave; đ&uacute;ng thời? V&agrave; đức vua ấy l&agrave; người ra sao?<br>
- Tr&aacute;i c&acirc;y kia c&ograve;n xanh, kh&ocirc;ng thể mong n&oacute; ch&iacute;n vội. Vậy đến l&uacute;c n&agrave;o đ&oacute;, tự con sẽ thấy l&agrave; đ&uacute;ng thời, tự con sẽ biết.<br>
- Đệ tử sẽ c&ograve;n học v&agrave; h&agrave;nh bao l&acirc;u nữa?<br>
- Con c&ograve;n phải văn, tư v&agrave; tu nhiều lắm, h&atilde;y biết như vậy! Suy nghĩ một l&uacute;c, tỳ khưu Na-ti&ecirc;n lại hỏi tiếp:<br>
- Ba th&aacute;ng mưa tới đ&acirc;y, đệ tử sẽ nhập hạ ở đ&acirc;u để c&oacute; được sự tấn &iacute;ch lợi lạc?<br>
- Con h&atilde;y bộ h&agrave;nh đến ch&ugrave;a N&igrave;yaka v&agrave; thọ gi&aacute;o với vị đại trưởng l&atilde;o ở đấy. N&oacute;i rằng ta gởi lời vấn an sức khỏe của người. Đến ng&agrave;y tỳ khưu Na-ti&ecirc;n từ gi&atilde; thầy bổn sư để l&ecirc;n đường. Tại ch&ugrave;a N&igrave;yaka, Na-ti&ecirc;n gặp lại đại trưởng l&atilde;o m&agrave; ng&agrave;i từng gặp ở thạch động Rakkhita, đảnh lễ, vấn an sức khỏe của người rồi ngồi sang một b&ecirc;n. Vị đại trưởng l&atilde;o ch&iacute;nh l&agrave; ng&agrave;i Assagutta, giả vờ hỏi rằng:<br>
- Ngươi t&ecirc;n chi?<br>
- T&ecirc;n của đệ tử, ng&agrave;i r&otilde; rồi.<br>
- Vậy t&ecirc;n ta l&agrave; g&igrave;?<br>
- Thầy bổn sư của đệ tử biết r&otilde; t&ecirc;n của ng&agrave;i.<br>
- Bổn sư của ngươi t&ecirc;n g&igrave;?<br>
- Ng&agrave;i đ&atilde; biết r&otilde; t&ecirc;n bổn sư của đệ tử. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta rất th&uacute; vị, b&egrave;n n&oacute;i:<br>
- Đ&uacute;ng thế! Rồi thầm nghĩ: &quot;Ng&agrave;i Rohana gởi y đến ta l&agrave; cốt &yacute; để ta m&agrave;i giũa c&aacute;i &quot;ph&aacute;p kh&iacute;&quot; n&agrave;y cho sắc b&eacute;n, nhưng ta sẽ kh&ocirc;ng m&agrave;i giũa, ta sẽ l&agrave;m cho n&oacute; c&ugrave;n nhụt bớt đi. H&atilde;y dập tắt ki&ecirc;u căng, ng&atilde; mạn nơi tỳ khưu Na-ti&ecirc;n n&agrave;y.&quot; Kể từ h&ocirc;m ấy, đại trưởng l&atilde;o Assagutta giữ im lặng, kh&ocirc;ng n&oacute;i một lời dầu cho tỳ khưu Na-ti&ecirc;n c&oacute; hỏi g&igrave; chăng nữa. Ngo&agrave;i ra, chỗ n&agrave;o m&agrave; Na-ti&ecirc;n qu&eacute;t dọn, cất đặt, đại trưởng l&atilde;o Assagutta cất đặt, qu&eacute;t dọn lại. Nơi n&agrave;o Na-ti&ecirc;n m&uacute;c nước đầy, ng&agrave;i nghi&ecirc;ng đổ đi, m&uacute;c nước nơi kh&aacute;c rửa mặt, tay ch&acirc;n v.v...Tuy nhi&ecirc;n, Na-ti&ecirc;n kh&ocirc;ng lấy thế l&agrave;m phiền h&agrave;, một l&ograve;ng nhẫn nại, mềm mỏng để vượt qua tất cả mọi thử th&aacute;ch. Ba th&aacute;ng như vậy qua đi. Một bữa kia, c&oacute; người cận sự nữ th&acirc;n t&iacute;n, l&acirc;u năm, đến ch&ugrave;a thỉnh đại trưởng l&atilde;o xin c&uacute;ng dường để b&aacute;t tại nh&agrave;, rồi n&oacute;i:<br>
- Dường như ở ch&ugrave;a c&oacute; vị kh&aacute;ch tăng từ phương xa đến an cư, phải thế kh&ocirc;ng, bạch ng&agrave;i?<br>
- C&oacute;, l&agrave; t&acirc;n tỳ kheo Na-ti&ecirc;n .<br>
- Đệ tử xin thỉnh lu&ocirc;n vị ấy. Đại trưởng l&atilde;o Assagutta im lặng nhận lời. H&ocirc;m sau, cũng kh&ocirc;ng mở miệng, ng&agrave;i ra dấu hiệu bảo Na-ti&ecirc;n đắp y mang b&aacute;t đi theo. Người cận sự nữ sau khi tự tay m&igrave;nh d&acirc;ng c&uacute;ng thực phẩm thượng vị đến b&aacute;t cho hai ng&agrave;i, đợi hai ng&agrave;i d&ugrave;ng xong b&egrave;n thưa thỉnh muốn được nghe ph&aacute;p. Đại trưởng l&atilde;o chợt n&oacute;i với Na-ti&ecirc;n:<br>
- &Ocirc;ng h&atilde;y t&ugrave;y nghi thuyết ph&aacute;p l&agrave;m sao cho th&iacute; chủ của &ocirc;ng được hoan hỷ. N&oacute;i xong, chẳng đợi Na-ti&ecirc;n &quot;ừ hử&quot; ra sao, đại trưởng l&atilde;o đ&atilde; quăng b&aacute;t qua hư kh&ocirc;ng, bay về ch&ugrave;a N&igrave;yaka trong thời gian chớp mắt. Na-ti&ecirc;n ngơ ngẩn, xuất thần m&agrave; b&agrave; t&iacute;n nữ cũng ngơ ngẩn xuất thần một l&uacute;c l&acirc;u. Người cận sự nữ b&egrave;n t&acirc;u:<br>
- Thỉnh đại đức thuyết ph&aacute;p. Đệ tử đ&atilde; 30 năm tu học l&agrave;m một cận sự tại gia, h&ocirc;m nay chỉ th&iacute;ch nghe ph&aacute;p s&acirc;u xa mầu nhiệm hầu mở mang tr&iacute; tuệ. Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n định t&acirc;m một l&aacute;t, đo&aacute;n căn cơ, rồi với t&acirc;m ch&acirc;n thật v&agrave; l&ograve;ng bi mẫn, n&oacute;i rằng:<br>
- H&atilde;y nghe đ&acirc;y b&agrave; t&iacute;n nữ! B&agrave; kh&ocirc;ng muốn nghe nhiều lời m&agrave; t&ocirc;i cũng mới chỉ l&agrave; t&acirc;n tỳ kheo, tu học chẳng bao l&acirc;u, kh&ocirc;ng c&oacute; nhiều ph&aacute;p. Vậy t&ocirc;i chỉ thuyết t&oacute;m tắt một kệ ng&ocirc;n th&ocirc;i, b&agrave; h&atilde;y nhiếp t&acirc;m v&agrave; chăm ch&uacute; lắng nghe!<br>
- V&acirc;ng, thưa đại đức. Rồi với giọng ph&aacute;t &acirc;m chuẩn mực, ch&iacute;nh x&aacute;c nhất, tỳ kheo Na-ti&ecirc;n ng&acirc;m một kệ ng&ocirc;n như sau: &quot;Yamkincisamudayadhamma sabbantam nirodhadhammam; c&oacute; nghĩa l&agrave;: &quot;tất cả c&aacute;c ph&aacute;p được cấu tạo, kết hợp, hữu vi; n&oacute; do duy&ecirc;n sanh th&igrave; phải theo duy&ecirc;n diệt&quot;. Như ch&igrave;a kh&oacute;a mở cửa kho t&agrave;ng, c&acirc;u kệ ng&ocirc;n được thuyết l&ecirc;n h&agrave;m nghĩa tinh yếu gi&aacute;o ph&aacute;p đ&atilde; v&eacute;n mở tr&iacute; tuệ cho b&agrave; t&iacute;n nữ. Thanh &acirc;m trầm h&ugrave;ng, vi diệu của c&acirc;u kệ như tiếng chu&ocirc;ng ng&acirc;n vừa ch&igrave;m lắng trong kh&ocirc;ng gian, b&agrave; đ&atilde; đắc quả Tu-đ&agrave;-huờn, nhập v&agrave;o d&ograve;ng Th&aacute;nh. Xiết bao hoan hỷ, b&agrave; t&iacute;n nữ gi&agrave; nua quỳ mọp xuống đảnh lễ với những giọt nước mắt rơi lả chả: giọt nước mắt mừng vui, v&igrave; b&agrave; biết rằng từ đ&acirc;y, c&ograve;n rất &iacute;t phiền n&atilde;o, b&agrave; sẽ nhẹ nh&agrave;ng cất c&aacute;nh bay về c&otilde;i B&igrave;nh an Vĩnh hằng! Trong l&uacute;c ấy, ở ch&ugrave;a N&igrave;yaka, đại trưởng l&atilde;o Assagutta d&ugrave;ng thần th&ocirc;ng theo d&otilde;i v&agrave; biết r&otilde; mọi chuyện, ng&agrave;i thốt l&ecirc;n: &quot;L&agrave;nh thay, l&agrave;nh thay!&quot; rồi suy nghĩ: &quot;Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n vừa được tr&iacute; vừa được t&acirc;m, kh&aacute; lắm! Ng&atilde; mạn, tự cao giờ y đ&atilde; lắng dịu! B&agrave;i ph&aacute;p ngắn gọn vừa rồi chứng tỏ y đầy đủ c&ocirc;ng hạnh bala-mật từ qu&aacute; khứ. Chỉ với một mũi t&ecirc;n bu&ocirc;ng ra l&agrave; tr&uacute;ng đ&iacute;ch, cũng vậy, một c&acirc;u kệ ng&ocirc;n th&ocirc;i m&agrave; đ&atilde; l&agrave;m cho b&agrave; t&iacute;n nữ cắt đứt một l&uacute;c ba sợi d&acirc;y tr&oacute;i buộc l&agrave; th&acirc;n kiến, ho&agrave;i nghi v&agrave; giới cấm thủ. Hy hữu thay!&quot; Tr&ecirc;n hư kh&ocirc;ng, đại trưởng l&atilde;o Assagutta c&ograve;n nghe được rất nhiều chư thi&ecirc;n ph&aacute;t t&acirc;m thỏa th&iacute;ch, rải hoa c&uacute;ng dường v&agrave; hết l&ograve;ng t&aacute;n th&aacute;n tr&iacute; tuệ ba-la-mật của tỳ kheo Na-ti&ecirc;n . Trở về ch&ugrave;a, tỳ kheo Na-ti&ecirc;n đến đảnh lễ đại trưởng l&atilde;o rồi ngồi xuống một nơi phải lẽ. T&ocirc;n giả Assagutta n&oacute;i:<br>
- Ngươi đ&atilde; thuyết g&igrave;?<br>
- Bạch, ng&agrave;i đ&atilde; biết r&otilde; hơn cả đệ tử nữa! Im lặng.<br>
- Ngươi thuyết &quot;hay&quot; nhỉ?<br>
- Bạch t&ocirc;n trưởng, ng&agrave;i đ&atilde; q&uacute;a khen, vả lại, ng&atilde;i cũng r&otilde;, kh&ocirc;ng phải đệ tử thuyết &quot;hay&quot;, m&agrave; nhờ may mắn l&agrave; đ&uacute;ng căn cơ! Im lặng.<br>
- Ch&acirc;n thực, nhẫn nại l&agrave; những ba-la-mật m&agrave; ngươi đ&atilde; tự th&agrave;nh tựu!<br>
- Đệ tử nhờ sự chỉ dạy của t&ocirc;n trưởng.<br>
- Tất cả những ba-la-mật kh&aacute;c cũng cần phải được tu tập cho trọn vẹn, sung m&atilde;n như thế.<br>
- Thưa v&acirc;ng! Im lặng. Đại trưởng l&atilde;o chợt &acirc;n cần n&oacute;i với Na-ti&ecirc;n:<br>
- B&acirc;y giờ ta phải trở lại Hy-m&atilde;-lạp sơn, c&ograve;n ngươi th&igrave; h&atilde;y đi đến ph&iacute;a t&acirc;y của th&agrave;nh phố P&agrave;taliputta, ch&ugrave;a Asoka, đảnh lễ vị trưởng l&atilde;o t&ecirc;n l&agrave; Dhammarakkhita. Ở đấy ngươi c&oacute; thể học hỏi được &iacute;t nhiều.<br>
- Bạch t&ocirc;n trưởng, ng&agrave;i kh&ocirc;ng chỉ dạy g&igrave; th&ecirc;m cho đệ tử nữa sao?<br>
- Ta c&ograve;n một v&agrave;i việc nữa trước khi Niết-b&agrave;n, nhưng đối với ngươi th&igrave; ta đ&atilde; hết tr&aacute;ch nhiệm v&agrave; bổn phận. H&atilde;y chuẩn bị v&agrave; l&ecirc;n đường v&agrave;o s&aacute;ng h&ocirc;m sau. Na-ti&ecirc;n chợt x&uacute;c động quỳ &ocirc;m ch&acirc;n bậc t&ocirc;n trưởng, l&aacute;t sau mới hỏi:<br>
- Đệ tử kh&ocirc;ng c&ograve;n gặp ng&agrave;i nữa chăng?<br>
- Duy&ecirc;n đ&atilde; m&atilde;n. Im lặng.<br>
- Từ đ&acirc;y đến ch&ugrave;a Asoka l&agrave; bao xa, thưa t&ocirc;n trưởng?<br>
- Chừng một trăm do tuần. Im lặng.<br>
- Xin ng&agrave;i bi mẫn dạy cho con một lời cuối c&ugrave;ng?<br>
- H&atilde;y thắp s&aacute;ng ngọn đuốc Ch&aacute;nh Ph&aacute;p! Khi Na-ti&ecirc;n quỳ xuống th&agrave;nh k&iacute;nh đảnh lễ, ngước l&ecirc;n th&igrave; kh&ocirc;ng c&ograve;n tr&ocirc;ng thấy đại trưởng l&atilde;o Assagutta nữa; ng&agrave;i b&ugrave;i ng&ugrave;i đứng lặng nh&igrave;n v&agrave;o giữa hư kh&ocirc;ng, cảm th&aacute;n thốt l&ecirc;n: &quot;&Ocirc;i! C&aacute;c bậc Th&aacute;nh nh&acirc;n tr&ecirc;n đời n&agrave;y họ đến đi nhẹ nh&agrave;ng, thanh tho&aacute;t, g&oacute;t ch&acirc;n họ kh&ocirc;ng hề d&iacute;nh d&ugrave; l&agrave; một ch&uacute;t bụi hư kh&ocirc;ng.&quot; S&aacute;ng ng&agrave;y, vị t&acirc;n tỳ kheo Na-ti&ecirc;n lầm lũi nhắm th&agrave;nh phố P&agrave;taliputta l&ecirc;n đường. Đi mới được một đổi, một đo&agrave;n năm trăm cổ xe với h&agrave;ng h&oacute;a chất đầy tung bụi lướt qua. Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n đứng n&eacute;p v&agrave;o gốc c&acirc;y ven lộ. Thấy ng&agrave;i, người b&aacute; hộ kh&aacute;ch thương cho dừng xe lại, đến b&ecirc;n cung k&iacute;nh hỏi:<br>
- Bạch ng&agrave;i, ng&agrave;i định bộ h&agrave;nh về đ&acirc;u?<br>
- Bần đạo đến th&agrave;nh phố P&agrave;taliputta, ch&ugrave;a Asoka.<br>
- Con cũng về hướng ấy, vậy xin thỉnh ng&agrave;i c&ugrave;ng đi với con.<br>
- Cảm ơn l&ograve;ng tốt của th&iacute; chủ.<br>
- Xin ng&agrave;i đừng cảm ơn con, con l&agrave; một cư sĩ, con l&agrave;m việc ấy v&igrave; t&acirc;m hoan hỷ, v&igrave; bổn phận th&iacute;ch đ&aacute;ng của người Phật tử. Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n từ tốn mỉm cười, khẽ gật đầu. Thế rồi họ c&ugrave;ng l&ecirc;n xe tiếp tục h&agrave;nh tr&igrave;nh. Người kh&aacute;ch thương lặng lẽ quan s&aacute;t tướng mạo, ng&ocirc;n ngữ, cử chỉ của vị sa m&ocirc;n trẻ trung, xinh đẹp m&agrave; kh&ocirc;ng ngớt khen thầm trong l&ograve;ng. Khắp nơi, Tăng lữ ly t&aacute;n, ch&ugrave;a chiền hoang phế; chỉ c&ograve;n năm, bảy am thất khuất tịch l&agrave; c&ograve;n sinh hoạt<br>
- thế m&agrave; ở đ&acirc;u lại sản sinh ra một vị tỳ kheo phi ph&agrave;m như thế n&agrave;y? Vị kh&aacute;ch thương chợt n&oacute;i:<br>
- Từ đ&acirc;y đến ch&ugrave;a Asoka, ch&uacute;ng ta phải đi mất bảy, t&aacute;m ng&agrave;y đường, vậy trong thời gian ấy, đại đức h&atilde;y cho ph&eacute;p con được d&acirc;ng c&uacute;ng vật thực v&agrave;o mỗi bữa trưa. Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n nhận lời bằng c&aacute;ch l&agrave;m thinh. Đường xa, người kh&aacute;ch thương được dịp hầu chuyện.<br>
- Vị bổn sư m&agrave; con quy y l&agrave; một vị luận sư tinh th&ocirc;ng Vi diệu tạng, n&ecirc;n con cũng m&ecirc; say m&ocirc;n học ấy. Vậy chẳng hay đại đức c&oacute; thể chỉ gi&aacute;o cho con một v&agrave;i điểm trong tạng ấy chăng? Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n ngạc nhi&ecirc;n n&oacute;i:<br>
- L&agrave; cư sĩ m&agrave; &ocirc;ng cũng học Vi diệu tạng ư? Về tạng ấy bần đạo cũng c&oacute; học được ch&uacute;t &iacute;t. &Ocirc;ng cư sĩ cứ hỏi, bần đạo sẽ trả lời bằng khả năng hiểu biết hạn hẹp của m&igrave;nh. Thế rồi, thầy tr&ograve; ng&agrave;y đi đ&ecirc;m nghỉ. Những c&acirc;u hỏi lần lượt của người kh&aacute;ch thương đưa ra, được tỳ kheo Na-ti&ecirc;n khi&ecirc;m tốn trả lời. Trước dễ, sau kh&oacute;, từ cạn v&agrave;o s&acirc;u... người kh&aacute;ch thương đ&atilde; thật sự kinh ngạc trước kiến thức bao la như đại dương của vị tỳ kheo trẻ. &Ocirc;ng ta lại c&agrave;ng k&iacute;nh trọng v&agrave; kh&acirc;m phục hơn nữa ở đức t&iacute;nh nhũn nhặn, khi&ecirc;m h&ograve;a v&agrave; sự định tĩnh t&acirc;m hồn được biểu hiện qua nụ cười, đ&ocirc;i mắt c&ugrave;ng tứ oai nghi của ng&agrave;i. Những c&acirc;u hỏi về Vi diệu tạng vừa chấm dứt th&igrave; th&agrave;nh phố P&agrave;taliputta cũng vừa hiện ra ở cuối tầm mắt. Người kh&aacute;ch thương như vừa tắm xong trong một d&ograve;ng suối trong l&agrave;nh của Ph&aacute;p bảo, &ocirc;ng ta hoan hỷ v&agrave; thỏa th&iacute;ch v&ocirc; hạn; huệ nh&atilde;n ph&aacute;t sanh, mọi trần cấu, bợn nhơ phiền n&atilde;o th&ocirc; thiển chợt dưng lắng dịu, những &aacute;c ph&aacute;p kh&ocirc;ng c&ograve;n dấy khởi l&ecirc;n nữa: &ocirc;ng ta đ&atilde; chứng quả Nhập lưu! Khi chia tay, người kh&aacute;ch thương ph&aacute;t t&acirc;m trong sạch c&uacute;ng dường xấp vải Kampala qu&yacute; b&aacute;u d&agrave;i mười s&aacute;u hắc tay, rộng t&aacute;m hắc tay. Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n n&oacute;i lời ch&uacute;c ph&uacute;c rồi từ gi&atilde;. Đến ch&ugrave;a Asoka, Na-ti&ecirc;n t&igrave;m gặp trưởng l&atilde;o Dhamm-arakkhita, đảnh lễ, d&acirc;ng xấp vải qu&yacute; cho ng&agrave;i rồi bạch rằng:<br>
- Đệ tử từ ch&ugrave;a N&igrave;yaka lặn lội đường xa tới đ&acirc;y, mong ng&agrave;i từ bi dạy ph&aacute;p học cho đệ tử.<br>
- &Ocirc;ng l&agrave; đệ tử của ai?<br>
- Bạch, tất cả c&aacute;c vị t&ocirc;n t&uacute;c trưởng l&atilde;o trong hang động Rakkhita đều l&agrave; thầy của đệ tử. T&ocirc;n giả Dhammarakkhita gật đầu rồi hỏi tiếp:<br>
- Thầy trực tiếp l&agrave; vị n&agrave;o?<br>
- Thưa, t&ocirc;n trưởng Rohana, t&ocirc;n trưởng Assagutta.<br>
- Đấy l&agrave; c&aacute;c bậc đại T&ocirc;n t&uacute;c Th&aacute;nh nh&acirc;n! C&aacute;c ng&agrave;i ấy đ&atilde; dạy cho &ocirc;ng những g&igrave;?<br>
- Một vị dạy đệ tử Vi diệu tạng v&agrave; uy nghi giới hạnh, một vị dạy đệ tử đức ch&acirc;n thật, khi&ecirc;m cung v&agrave; nhẫn nại.<br>
- Tốt, vậy b&acirc;y giờ &ocirc;ng muốn học g&igrave; nữa?<br>
- Đệ tử ph&aacute;p học c&ograve;n k&eacute;m cỏi, thiếu s&oacute;t, xin ng&agrave;i v&igrave; l&ograve;ng bi mẫn dạy th&ecirc;m cho đệ tử về Kinh v&agrave; Luật. T&ocirc;n giả Dhammarakkhita im lặng nhận lời. Ng&agrave;y h&ocirc;m sau c&oacute; một vị tăng t&ecirc;n l&agrave; Tissadatta từ T&iacute;ch lan vượt biển t&igrave;m đến cũng mong được học tạng Kinh bằng ng&ocirc;n ngữ Magadha. Khi được hỏi, vị tỳ kheo n&agrave;y cho biết l&agrave; đ&atilde; học thuộc nằm l&ograve;ng tạng Kinh bằng tiếng Lank&agrave;, nay muốn học th&ecirc;m tạng Kinh bằng tiếng Magadha để tiện bề so s&aacute;nh, đối chiếu. T&ocirc;n giả Dhammarakkhita v&agrave; tỳ kheo Tissadatta n&oacute;i chuyện với nhau bằng tiếng T&iacute;ch lan. Khi trao đổi xong, tỳ kheo Tissadatta quỳ xuống đảnh lễ t&ocirc;n giả Dhammarakkhita. Buổi chiều, t&ocirc;n giả Dhammarakkhita n&oacute;i với Na-ti&ecirc;n:<br>
- Bắt đầu từ ng&agrave;y mai, &ocirc;ng c&ugrave;ng học chung với tỳ kheo Tissadatta! Na-ti&ecirc;n lắc đầu:<br>
- Đệ tử kh&ocirc;ng muốn học chung với vị ấy.<br>
- Tại sao?<br>
- Thưa , người xứ S&agrave;gala kh&ocirc;ng th&iacute;ch ng&ocirc;n ngữ Lan-k&agrave;, n&ecirc;n đệ tử chỉ muốn học tạng kinh bằng tiếng Magadha th&ocirc;i! T&ocirc;n giả Dhammarakkhita chợt nghi&ecirc;m mặt:<br>
- Dĩ nhi&ecirc;n l&agrave; ta dạy bằng tiếng Magadha! Nhưng &ocirc;ng đ&atilde; hiểu lầm ta v&agrave; c&oacute; &yacute; nghĩ xấu về tỳ kheo Tissadatta, &ocirc;ng c&oacute; thấy thế kh&ocirc;ng? Một luồng kh&iacute; lạnh chạy dọc sống lưng, Na-ti&ecirc;n quỳ mọp xuống xin s&aacute;m hối, nghĩ thầm trong t&acirc;m rằng: &quot;Những &yacute; nghĩ xấu quấy của ta như thế n&agrave;o, ng&agrave;i đều biết r&otilde; cả, vậy h&atilde;y cố gắng sống đời tỉnh thức, ch&aacute;nh niệm trong mỗi hơi thở.&quot; Thế rồi họ lần lượt học năm bộ kinh Nik&agrave;ya bằng tiếng Magadha, ấy l&agrave;: D&igrave;gha, Majjhima, Samyutta, Angutta-ra v&agrave; Khuddaka. Tr&iacute; nhớ của Na-ti&ecirc;n thật phi thường, chưa tới mười h&ocirc;m đ&atilde; học thuộc l&ograve;ng bộ D&igrave;gha Nik&agrave;ya, trong l&uacute;c ấy Tissadatta chưa học xong được một nửa! Ban đầu, t&ocirc;n giả Dhammarakkhita muốn d&igrave;m bớt t&iacute;nh kh&iacute; ki&ecirc;u ngạo của tỳ kheo Na-ti&ecirc;n bằng c&aacute;ch kh&ocirc;ng dạy tiếp nếu tỳ kheo Tissadatta chưa thuộc. Nhưng sau thấy Na-ti&ecirc;n kh&ocirc;ng tỏ vẻ n&oacute;ng nảy, vẫn lặng lẽ chờ đợi, th&igrave; giờ rảnh rỗi, ng&agrave;i thấy Na-ti&ecirc;n t&igrave;m chỗ khuất vắng để t&igrave;m hiểu nghĩa kinh, hay ngồi thiền định, n&ecirc;n ng&agrave;i lại đổi &yacute;. Lại nữa, trong l&uacute;c n&agrave;y Phật gi&aacute;o đang gặp nạn, c&aacute;c t&ocirc;n giả Rohana v&agrave; Assagutta đ&atilde; &acirc;n cần gởi gắm; vậy sự th&agrave;nh to&agrave;n ph&aacute;p học cho Na-ti&ecirc;n sớm chừng n&agrave;o sẽ tốt chừng ấy. V&igrave; nghĩ vậy n&ecirc;n t&ocirc;n giả Dhammarakkhita dạy tiếp cho Na-ti&ecirc;n. V&agrave; chỉ vỏn vẹn c&oacute; ba th&aacute;ng, Nati&ecirc;n đ&atilde; thuộc nằm l&ograve;ng năm bộ kinh. Ba th&aacute;ng sau đ&oacute; nữa, Na-ti&ecirc;n thuộc l&ograve;ng lu&ocirc;n cả năm bộ ch&uacute; giải. V&ocirc; c&ugrave;ng bằng l&ograve;ng về người đệ tử th&ocirc;ng minh tuyệt hảo, kh&ocirc;ng để mất th&igrave; giờ, t&ocirc;n giả Dhammarakkhita dạy lu&ocirc;n tạng Luật cho người học tr&ograve; y&ecirc;u. Thế rồi, trải qua bốn th&aacute;ng nữa, Na-ti&ecirc;n th&ocirc;ng suốt th&ecirc;m tạng Luật v&agrave; lu&ocirc;n cả ch&uacute; giải. H&ocirc;m kia, t&ocirc;n giả Dhammarakkhita dẫn Na-ti&ecirc;n đi dạo qua một v&ugrave;ng đồi, chỉ tay v&agrave;o một khu rừng xa, ng&agrave;i n&oacute;i:<br>
- C&oacute; lần, Phật tổ n&oacute;i g&igrave; về nắm l&aacute; trong tay so với l&aacute; c&acirc;y trong rừng kia?<br>
- Thưa, ng&agrave;i bảo rằng, nhiều như l&aacute; c&acirc;y trong rừng kia l&agrave; hiểu biết của ng&agrave;i; nhưng những g&igrave; ng&agrave;i chỉ dạy, thuyết ra chỉ bằng nắm l&aacute; trong tay của ng&agrave;i th&ocirc;i.<br>
- Vậy l&agrave; thế n&agrave;o nhỉ?<br>
- Thưa, Đức Thế T&ocirc;n chỉ n&oacute;i những điều đ&aacute;ng n&oacute;i, cần thiết, điều lợi &iacute;ch cho ch&uacute;ng sanh; ngo&agrave;i ra, những điều v&ocirc; bổ, ph&ugrave; phiếm, những điều rỗng kh&ocirc;ng nhằm thỏa m&atilde;n kiến thức, kh&ocirc;ng đưa đến gi&aacute;c ngộ, giải tho&aacute;t, ng&agrave;i kh&ocirc;ng n&oacute;i.<br>
- Đ&uacute;ng thế! Ngay ch&iacute;nh những điều m&agrave; ng&agrave;i n&oacute;i ra, được ghi lại trong Tam Tạng, ch&uacute;ng c&oacute; phải l&agrave; Sự thật chăng? L&agrave; ch&acirc;n l&yacute; chăng?<br>
- Thưa, kh&ocirc;ng phải, ch&uacute;ng chỉ l&agrave; ng&oacute;n tay trỏ chỉ mặt trăng, chứ chẳng phải mặt trăng! T&ocirc;n giả Dhammarakkhita gật đầu:<br>
- Con hiểu vậy l&agrave; ch&iacute;nh x&aacute;c! L&uacute;c ấy, một người chăn b&ograve; đang l&ugrave;a một đ&agrave;n b&ograve; đi ngang qua. Đợi cho đ&agrave;n b&ograve; đi khuất, ng&agrave;i Dhammarakkhita n&oacute;i:<br>
- Con c&oacute; li&ecirc;n tưởng g&igrave; về người chăn b&ograve; v&agrave; đ&agrave;n b&ograve; n&agrave;y?<br>
- Thưa, người chăn b&ograve; kia c&oacute; lẽ biết rất r&otilde; đ&agrave;n b&ograve; ấy c&oacute; mấy trăm con, bao nhi&ecirc;u đực c&aacute;i, bao nhi&ecirc;u b&ecirc; con, con n&agrave;o gi&agrave; yếu, con n&agrave;o sắp sinh v.v... Y lại c&ograve;n rất r&agrave;nh c&aacute;ch chăm s&oacute;c, nu&ocirc;i dưỡng đ&agrave;n b&ograve; sao cho mập, mau ph&aacute;t triển; nhưng vị ngon, vị ngọt của sữa b&ograve; như thế n&agrave;o... th&igrave; c&oacute; lẽ l&agrave; người kh&aacute;c được hưởng c&ograve;n y kh&ocirc;ng được hưởng!<br>
- Đ&uacute;ng như vậy.<br>
- Thưa, cũng dường thế ấy, người l&agrave;u th&ocirc;ng Tam tạng, r&agrave;nh rẽ gi&aacute;o ph&aacute;p, c&oacute; thể giảng n&oacute;i kinh nghĩa, kệ ng&ocirc;n thao thao bất tuyệt, th&aacute;ng n&agrave;y qua th&aacute;ng nọ; ph&acirc;n t&iacute;ch chi ly từng mục, đoạn, phần..., c&aacute;c chi ph&aacute;p rất rạch r&ograve;i, ph&acirc;n minh...; nhưng nếu y chưa nếm được hương vị của Ph&aacute;p, chứng nghiệm Ph&aacute;p, sống trong Ph&aacute;p... th&igrave; so với người chăn b&ograve; c&oacute; kh&aacute;c g&igrave; đ&acirc;u?<br>
- Đ&uacute;ng như vậy! N&agrave;y con, con đừng l&agrave;m người chăn b&ograve; tội nghiệp kia nh&eacute;! Tỳ kheo Na-ti&ecirc;n nghe r&uacute;ng động cả ch&acirc;u th&acirc;n, thầm cảm k&iacute;ch s&acirc;u xa sự gi&aacute;o giới, nhắc nhở của vị thầy si&ecirc;u việt, ng&agrave;i quỳ xuống &ocirc;m ch&acirc;n bụi bậc t&ocirc;n trưởng:<br>
- L&agrave;u th&ocirc;ng Tam tạng cũng trở n&ecirc;n rỗng kh&ocirc;ng, v&ocirc; &iacute;ch nếu chưa chứng ngộ Ph&aacute;p mầu. Đệ tử biết l&agrave; đệ tử phải l&agrave;m g&igrave; rồi. Sau buổi đ&agrave;m đạo ấy, Na-ti&ecirc;n r&uacute;t v&agrave;o một cốc vắng để chuy&ecirc;n tu thiền định v&agrave; thiền qu&aacute;n. Ng&agrave;i nhất mực tinh tấn theo đuổi ph&aacute;p h&agrave;nh. Ngo&agrave;i việc khất thực để nu&ocirc;i mạng, th&igrave; giờ c&ograve;n lại ng&agrave;i gia c&ocirc;ng chuy&ecirc;n niệm ng&agrave;y đ&ecirc;m, chỉ nghỉ nghi&ecirc;ng lưng v&agrave;o canh cuối. H&ocirc;m kia, tuệ gi&aacute;c bừng s&aacute;ng, thấy r&otilde; Diệt đế, ng&agrave;i đắc A-la-h&aacute;n quả, lu&ocirc;n cả 4 tuệ ph&acirc;n t&iacute;ch (Patisambhidanana) v&agrave; thần th&ocirc;ng. Ngay khi ấy trời đất c&oacute; những hiện tượng phi thường như địa cầu chấn động, biển cả s&oacute;ng d&acirc;ng cao, n&uacute;i Tu-di rung rinh, chư thi&ecirc;n hoan hỷ v&agrave; hoa trời rơi xuống c&uacute;ng dường v.v... T&ocirc;n giả Dhammarakkhita xuất hiện, mỉm nụ cười hoa sen:<br>
- Ta ch&uacute;c mừng con việc lớn đ&atilde; th&agrave;nh. Hiện giờ c&aacute;c đại t&ocirc;n giả ở đỉnh n&uacute;i Himalaya đang chờ con để giao ph&oacute; c&ocirc;ng việc đấy! Xiết bao cảm k&iacute;ch, tỳ kheo Na-ti&ecirc;n lạy tạ từ biệt thầy, tức khắc biến mất khỏi chỗ v&agrave; c&oacute; mặt ngay tại hang động Rakkhita trước mặt hội ch&uacute;ng Th&aacute;nh nh&acirc;n A-la-h&aacute;n. Sau khi đảnh lễ c&aacute;c vị đại t&ocirc;n giả, tỳ kheo Na-ti&ecirc;n nh&igrave;n quanh kh&ocirc;ng thấy đại trưởng l&atilde;o Assagutta, biết ngay l&agrave; ng&agrave;i đ&atilde; Niết-b&agrave;n rồi. Đại đức Rohana biết &yacute;, n&oacute;i rằng:<br>
- Bậc đại t&ocirc;n trưởng Assagutta trước khi diệt độ c&oacute; dạy lại rằng, con phải t&igrave;m c&aacute;ch phục hưng Ch&aacute;nh Ph&aacute;p.<br>
- Đệ tử phải l&agrave;m như thế n&agrave;o? V&agrave; đ&acirc;y c&oacute; phải l&agrave; thời m&agrave; t&ocirc;n trưởng sẽ x&aacute; tội xưa của đệ tử?<br>
- Phải rồi! Mọi nh&acirc;n mọi duy&ecirc;n đều đ&atilde; đầy đủ. C&aacute;c vị t&ocirc;n t&uacute;c trưởng l&atilde;o đ&atilde; phải khổ c&ocirc;ng th&agrave;nh to&agrave;n Ph&aacute;p học v&agrave; Ph&aacute;p h&agrave;nh cho con. Trước mắt, con phải l&agrave;m hai c&ocirc;ng việc.<br>
- Đệ tử xin nghe!<br>
- Việc thứ nhất l&agrave; phục hưng tất cả c&aacute;c ch&ugrave;a chiền hoang phế, quy tụ Tăng lữ trở về, cho xuất gia th&ecirc;m, đ&agrave;o tạo Tăng t&agrave;i, tổ chức c&aacute;c buổi thuyết ph&aacute;p ở nhiều nơi để cận sự nam nữ c&oacute; cơ hội trở lại với những sinh hoạt y như trước đ&acirc;y!<br>
- Thưa, một m&igrave;nh đệ tử sợ kh&ocirc;ng kham nổi.<br>
- Con chớ lo lắng, ở đ&acirc;u cần sự gi&uacute;p đỡ, chư t&ocirc;n t&uacute;c trưởng l&atilde;o ở đ&acirc;y sẽ xuất hiện kịp thời!<br>
- Vậy đệ tử xin hoan hỷ nhận l&atilde;nh tr&aacute;ch nhiệm m&agrave; qu&yacute; ng&agrave;i đ&atilde; giao ph&oacute;.<br>
- Việc thứ hai l&agrave; sau khi việc thứ nhất đ&atilde; đi v&agrave;o nề nếp, con h&atilde;y đến tại kinh đ&ocirc; S&agrave;gala ch&ugrave;a Sankheyya, c&oacute; vị đại đức t&ecirc;n l&agrave; Ayup&agrave;la ở đấy, con chuẩn bị để gặp gỡ đức vua Mi-lan-đ&agrave; v&agrave; kh&ocirc;n kh&eacute;o sử dụng tất cả mọi khả năng tr&iacute; tuệ của m&igrave;nh. Con phải nhiếp phục đức vua ấy, đấy l&agrave; mệnh lệnh tối hậu.<br>
- Đệ tử c&oacute; nhiếp phục được chăng?<br>
- H&atilde;y qu&aacute;n nh&acirc;n duy&ecirc;n, con sẽ thấy! Nghe lời, tỳ kheo Na-ti&ecirc;n nhiếp t&acirc;m, theo d&otilde;i tiến tr&igrave;nh sinh tử của ch&iacute;nh m&igrave;nh từ kiếp n&agrave;y sang kiếp kia; l&acirc;u sau, ng&agrave;i thấy một ng&ocirc;i ch&ugrave;a lớn ven s&ocirc;ng, thời Phật Ca diếp, ng&agrave;i l&agrave;m một vị tỳ kheo như thế, vua Mi-lan-đ&agrave; hiện nay, trước kia l&agrave;m một vị sa di như thế. V&igrave; lời nguyện của cả hai như vậy n&ecirc;n b&acirc;y giờ c&oacute; nh&acirc;n c&oacute; duy&ecirc;n như vậy. X&uacute;c động Ch&aacute;nh Ph&aacute;p, tỳ kheo Nati&ecirc;n q&ugrave;y xuống dưới ch&acirc;n c&aacute;c bậc t&ocirc;n trưởng:<br>
- Qu&yacute; ng&agrave;i đ&atilde; khổ t&acirc;m v&igrave; đệ tử , v&igrave; nh&acirc;n duy&ecirc;n của ch&iacute;nh đệ tử m&agrave; từ l&acirc;u đệ tử kh&ocirc;ng thấy, kh&ocirc;ng biết. Vậy xin qu&yacute; ng&agrave;i tha thứ tất cả lỗi lầm của đệ tử d&ugrave; cố &yacute; hay v&ocirc; t&igrave;nh m&agrave; x&acirc;m phạm đến qu&yacute; ng&agrave;i! Tiếng &quot;l&agrave;nh thay, l&agrave;nh thay&quot; vang l&ecirc;n. Khi Na-ti&ecirc;n ngửng đầu th&igrave; chẳng c&ograve;n ai ở đấy nữa, hang động vắng tanh, lạnh l&ugrave;ng... dường như chỉ c&ograve;n thoảng m&ugrave;i hoa hương vi diệu m&agrave; chư thi&ecirc;n rải xuống c&uacute;ng dường. Ngơ ngẩn, xuất thần, Na-ti&ecirc;n đảnh lễ hang động Rakkhita lần cuối c&ugrave;ng rồi sửa lại y b&aacute;t xuống n&uacute;i theo con đường hạnh nguyện.</p>
<p>---o0o---</p>

Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong. Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này? Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý: -Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đà. Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm biết tâm, tất cả Thánh chúng Ala-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay. Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão Assagutta, bạch rằng: -Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo của quý ngài. Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai có khả năng đối thoại được với đức vua ấy. Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia, phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?
- Đúng thế! Vua trời Đế thích gật đầu:
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"! Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu nguy cho chánh pháp. Đế thích Thiên chủ nói:
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena. Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận rằng:
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu, cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra mới phục hưng được chánh giáo. Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng dưng nhìn ra xa đáp:
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy. Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy. Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm, mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp. Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya. Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng? Một vị tâu:
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức