<p>Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong. Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:<br>
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này? Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý: -Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đà. Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm biết tâm, tất cả Thánh chúng Ala-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay. Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão Assagutta, bạch rằng: -Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo của quý ngài. Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai có khả năng đối thoại được với đức vua ấy. Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:<br>
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia, phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?<br>
- Đúng thế! Vua trời Đế thích gật đầu:<br>
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"! Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:<br>
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu nguy cho chánh pháp. Đế thích Thiên chủ nói:<br>
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena. Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận rằng:<br>
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu, cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra mới phục hưng được chánh giáo. Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng dưng nhìn ra xa đáp:<br>
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy. Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:<br>
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy. Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm, mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:<br>
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp. Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya. Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:<br>
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng? Một vị tâu:<br>
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.<br>
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức ấy đến đây. Trong lúc ấy, tỳ khưu Rohana vừa xả diệt định, hướng tâm đến, biết đại hội Thánh nhân A-la-hán đang cho triệu thỉnh mình, bèn tức khắc rời hang động, hiện diện ngay trước mặt Chư Tăng. Sau khi đảnh lễ chư vị trưởng lão, đại đức Rohana ngồi qua một bên. Các vị trưởng lão hỏi rằng:<br>
- Này hiền giả Rohana! Trước khi nhập định diệt, thọ tưởng bảy ngày, hiền giả có hướng tâm quán xét việc gì sẽ xảy ra trong bảy ngày ấy không? Đại đức Rohana bước ra, quỳ bạch:<br>
- Thưa quý ngài trưởng lão, vì không quán xét nên con không biết. Chư vị trưởng lão ngồi im lặng. Một vị trưởng lão nói rằng:<br>
- Vì không biết cho nên không cố ý, không cố tình; không cố ý, không cố tình vậy không có tội. Đại đức trưởng lão Assagutta nhè nhẹ gật đầu. Một vị trưởng lão lại nói:<br>
- Trong lúc chánh giáo đang gặp đại nạn, bần tăng đề nghị từ nay trước khi thọ hưởng hạnh phúc giải thoát, dầu thời hạn 3 ngày, qúi ngài cũng nên quán xét việc gì sẽ xảy ra trong thời gian ấy. Chư Tăng đồng ý ý kiến ấy bằng cách làm thinh. Đại đức Rohana tâu:<br>
- Thưa qúy ngài trưởng lão, con có phạm tội, tội gây ra dù không cố ý; vậy con xin nhận hình phạt do Tăng quyết định, hành phạt tương đương với tội "không cố ý" ấy! Chư Tăng đồng nở nụ cười hàm tiếu, im lặng. Đại trưởng lão Assagutta hỏi:<br>
- Này hiền giả Rohana! Trong mười pháp ba-la-mật, hiền giả thành tựu chưa được thuần thục, viên mãn là ba-la-mật nào?<br>
- Thưa tôn giả kính mến! Ba-la-mật kém nhất của con là tinh tấn và nhẫn nại. Đại trưởng lão Assagutta hội ý với các vị trưởng lão một lát rồi nói với đại chúng rằng:<br>
- Ở xứ Katangala, phía xa dưới chân ngọn tuyết lãnh này, có người bà-lamôn tên là Sonuttara, sẽ sanh hạ một đứa con tên là Na-tiên, hậu thân của thiên tử Mahàsena. Vậy cảm phiền đại đức Rohana hãy dùng hạnh ba-la-mật tinh tấn và nhẫn nại ấy đi gieo duyên, trì bình khất thực nơi nhà bà-la-môn ấy, cho đủ kỳ hạn bảy năm và mười tháng. Sau đó tìm cách độ cho trẻ Natiên xuất gia. Đấy chính là hình phạt cao thượng mà tôi đề nghị dành cho ngài Rohana, chẳng hay Chư Tăng có chuẩn y không? Chư Thánh Tăng thảy đều im lặng chấp thuận. Đại đức Rohana qùy bạch:<br>
- Hình phạt ấy con rất hoan hỷ, nhờ vậy, con sẽ bổ sung được công hạnh bala-mật của chính con.</p>
<p>* * *</p>
<p>Đấy là thời mà thiên tử Mahàsena rời khỏi thiên cung, gá vào thai bà vợ của ông bà-la-môn Sonuttara, là hương trưởng của xứ Katagala. Ngay lúc ấy, thế gian xuất hiện ba hiện tượng lạ thường:<br>
- Tất cả khí giới phát lên chói sáng.<br>
- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi.<br>
- Khắp trên không trung nổi lên những tiếng vang động. Các nhà tinh thông điềm triệu bèn giải rằng:<br>
- Khí giới phát sáng là sẽ có một cuộc chiến tranh sắp xảy ra , nhưng là cuộc chiến tranh , luận tranh do khí giới kiến thức và trí tuệ chói sáng.<br>
- Không phải mùa đông mà mưa tuyết rơi là một hiện tượng nghịch lý, đảo lộn sự tuần hòan của vũ trụ, vậy thì phải có một nhân cách phi phàm, người mà không phải người xuất hiện trên trần thế.<br>
- Sự xuất hiện của vị ấy, đấng ấy, không những chỉ lợi ích cho con người mà còn lợi ích cho rất nhiều cõi trời. Về phần đại đức Rohana, sau khi thọ nhận hình phạt cao thượng, ngài bộ hành đến xứ Katangala. Sau khi tìm hiểu dân tình, ngài biết rằng, thôn làng này là xứ sở ngoại giáo rất thịnh hành. Muốn sống được ở đây, hóa đạo ở đây thì ngài phải kiên trì tinh tấn và nhẫn nại bất thối chuyển. Tìm được một khu rừng mát mẻ tốt tươi, không gần mà cũng không xa xóm làng, đại đức Rohana chuẩn bị một cuộc ngụ cư lâu dài. Sau khi thu xếp được chỗ ở dưới bóng hai tàn cây đại thụ, trong một động đá thiên nhiên, đại đức Rohana lấy cỏ tranh kết tọa cụ rồi đi vào đại định, nghỉ ngơi dưỡng sức. Mấy hôm sau, xả diệt định khi vầng thái dương vừa ló dạng ở chân trời, đại đức Rohana đắp y mang bát hướng đến làng Katangala. Rồi tuần tự nhà này sang nhà kia cho đến gia đình ông bà-la-môn Sonuttara; nhưng ở đâu cũng bị đóng cửa hoặc đưa mắt nhìn hờ hững, khinh thị, chối từ...Mỉm nụ cười của bậc Thánh ở trong tâm, đại đức Rohana trở lại khu rừng u tĩnh của mình, kiếm lá cây, trái cây ăn tạm rồi vào động đá thọ hưởng hạnh phúc giải thoát... Những ngày hôm sau đều như vậy, với khuôn mặt từ bi, hiền hòa, với bước đi thanh thoát, trầm tĩnh, đại đức Rohana xuất hiện trước cửa mọi nhà; rồi lại với bát không, nhận lãnh những đôi mắt thiếu thiện cảm, vài lời nói xa gần chỉ trích, phỉ báng... rồi lại lặng lẽ đi về, ăn lá cây, trái cây và thiền định. Cuộc sống đều đặn như vậy trôi qua, các gia đình trong làng lần lượt thương mến, quý trọng vị sa môn hiền lành, họ cúng dường cơm, sữa, đường, mật ong...; và bao giờ nhận được vật thực gì, ngài đều đọc tụng lên một lời phúc chúc ngắn rồi bước sang một nhà khác. Dù nắng nóng nung người, mưa gió bão bùng hay đông hàn tuyết rơi; đại đức Rohana vẫn tinh tấn, chuyên cần, nhẫn nại, xuất hiện trước cửa mọi nhà như một chiếc đồng hồ chính xác nhất. Ngài không hề bỏ một ngày trong suốt 7 năm 10 tháng ròng rã như thế. Cả làng Katangala đều được đại đức Rohana cảm hóa, thỉnh thoảng có vài gia đình thỉnh ngài về nhà để bát và xin được nghe pháp. Đặc biệt, gia đình ông bà-la-môn Sonuttara vẫn đóng kín cửa trước bước chân của ngài suốt bảy năm mười tháng, đại đức Rohana không hề nhận được dầu chỉ một lời nói dễ nghe, một biểu hiện thân thiện, một sự kính trọng xã giao nào nơi nhà người bà-la-môn ấy. Một vá cơm, một muỗng cháo, m
ột cái bánh... lại càng không! Ngài chỉ nhận được lời chưởi chó, mắng mèo, lời rầy la con cái, lời thô lỗ cộc cằn, lời nói đâm xóc, cạnh khóe, chửi mắng, phỉ báng v.v... Hôm kia, theo lệ thường, đại đức Rohana ôm bát đứng trước ngôi nhà ấy, gia chủ bà-la-môn Sonuttara đi vắng, một người nô bộc cảm thấy tội nghiệp lén bước ra nói nhỏ nhẹ rằng:<br>
- Bạch ngài, xin ngài vui lòng đi độ thực nơi khác, khổ thân ngài thôi, gia đình này họ không dâng cúng chút gì đâu. Nghe được vậy, đại đức Rohana hoan hỷ mỉm cười dời chân đi. Sau khi khất thực vừa đủ dùng, ngài trở lại khu rừng. Bà-la-môn Sonuttara sau công việc trở về, gặp ngài ở giữa đường, cất giọng mỉa mai:<br>
- Này ngài tu sĩ, sáng nay đứng trước cửa nhà tôi, chắc ngài có nhận được chút gì đó chứ? Đại đức Rohana cất lời nhã nhặn:<br>
- Thưa gia chủ qúi mến! Cảm ơn lời chào hỏi, sáng nay, quả thật bần tăng có nhận được! Nghe vậy bà-la-môn Sonuttara tức giận, hối hả bước về, kêu cả nhà ra hạch hỏi xem ai là người cả gan trái ý ông, đem dâng cúng vật thực cho ông sa môn. Khi biết rằng, chẳng có ai đem cho gì cả, ông bà-la-môn giận run lẩy bẩy: "hoá ra là ông này nói dối, ta sẽ mặt đối mặt chỉ trích ông ta một phen." Sáng mai, vừa thấy bóng đại đức Rohana, bà-la-môn Sonuttara đã đứng chặn ở đầu ngõ, kêu mọi người trong xóm ra chứng kiến, rồi ông ta chất vấn:<br>
- Ông thầy tu kia, hôm qua, ở tại đây, chẳng có ai để bát cúng dường gì cho ông cả, thế tại sao gặp tôi, ông lại nói dối là "có nhận được"? "có nhận được" cái gì nào, trước mặt bà con lối xóm, ông hãy nói rõ cho tôi nghe? Đại đức Rohana điềm đạm nói:<br>
- Thưa gia chủ, bần tăng không hề nói dối, quả thật, hôm qua bần tăng có nhận được.<br>
- Gia đình tôi chẳng ai cho thì ông nhận được gì? Tu hành mà nói dối thế sao? Đại đức Rohana ngước nhìn mọi người xung quanh với tư thái trầm thản rồi nói với bà-la-môn Sonuttara:<br>
- Gia chủ hãy bình tĩnh nghe bần tăng nói đây. Bần tăng đến ngôi làng này tính đến nay là bảy năm mười tháng. Suốt trong thời gian ấy, bần tăng đều đặn đi khất thực mỗi ngày, không bỏ một ngày, dù thời tiết khắc nghiệt thế nào chăng nữa. Nhờ ơn Phật, bà con trong làng đã khởi tín tâm, hộ trì vật thực cơm cháo đầy đủ. Nhưng riêng gia đình gia chủ đây, gần ba ngàn ngày ấy, bần tăng vẫn kiên trì khất thực<br>
- mà bần tăng không hề nhận được một muỗng cháo, một vá cơm hoặc một chút vật thực dính trên đầu ngọn cỏ kusa! Cho chí một lời xã giao, một lời nói nhỏ nhẹ, dễ nghe... cũng không có! Lỗ tai bần tăng chỉ nhận được những lời cay chua, độc địa, những lời nói cạnh khóe, ác khẩu, ác ngữ...; thế nhưng, sáng hôm qua, bần tăng có nghe được một lời nói nhã nhặn, lễ độ... của một người tớ gái, cho nên bần tăng rất hoan hỷ, rất cảm ơn. Vậy thì thưa gia chủ, bần tăng nói với ngài là "bần tăng có nhận được" là đúng với sự thực, đâu phải là lời nói dối? Nghe xong câu chuyện, bà con trong xóm rất cảm động trước lời nói của vị chân tu. Riêng ông bà-la-môn Sonut--tara thì kinh cảm đến từng chân tơ kẻ tóc, lòng bừng bừng hoan hỷ, nghĩ rằng: "Chỉ với một lời nói dễ nghe mà ông ta đã tỏ vẻ cảm ơn như thế ấy, huống hồ ta thành kính cúng dường cơm bánh vật thực thượng vị thì ông ta sẽ thỏa thích và tri ân gia đình ta đến chừng nào?" Nghĩ thế xong, bà-la-môn Sonuttara chăm chú quan sát đại đức Rohana, ngạc nhiên làm sao, khi ông thấy vị sa môn kia sao thanh khiết quá, đức hạnh quá. Khuôn mặt vị ấy như tỏa ra ánh sáng dịu hiền, đôi mắt từ bi, dáng dấp ung dung, siêu thoát, tự tại, lục căn buông xả và nhàn tịnh. Một niềm tịnh tín dâng lên, một niềm hỷ lạc dâng lên, ông bà-la-môn bèn bước đến, quỳ mọp bên chân đại đức Rohana, kính cẩn bạch rằng:<br>
- Hôm nay con đã có tâm trong sạch với ngài, xin ngài hãy khoan thứ những tội lỗi do con đã mạo phạm. Vậy bắt đầu từ đây về sau, xin ngài vì lòng bi mẫn hãy thương tưởng đến con, tế độ con bằng cách cho con được cúng dường mỗi bữa! Đại đức Rohana im lặng nhận lời. * * * Khi câu chuyện xảy ra ở trên, đồng tử Na-tiên do thiên tử Mahàsena hạ sanh, sau mười tháng trong thai bào, bây giờ đã được bảy tuổi. Bà-la-môn Sonuttara cho mời một thầy ba-la-môn uyên bác đến dạy học. Họ sữa sọan bàn ghế, trải những tấm thảm quý để chuẩn bị cho lớp học khai tâm. Nhìn vị đồng tử tướng mạo phi phàm, thầy A-đồ-lê soạn ba bộ kinh Phệ-đà rồi lần lươt đọc tụng lên, xem thử trí nhớ của trẻ như thế nào! Hễ cứ đọc một đọan, thầy bảo Na-tiên đọc lại và Na-tiên đọc không sai một chữ. Kinh ngạc, thầy A-đồ-lê đọc tiếp. Suốt nửa tháng, ba bộ kinh Phệ-đà mới đọc xong và Na-tiên đã thuộc nằm lòng. Thầy A-đồ-lê giảng giải:<br>
- Đấy là tất cả kinh điển của giai cấp thượng đẳng bà-la-môn, con đường đến Phạm thể, những đức tính cao cả cùng những tri thức minh triết trên đời này mà một con trai bà-la-môn thông thái phải am tường. Kỳ lạ làm sao, con đã học thuộc, vậy bây giờ hãy nghe ta giảng đây. Nửa tháng sau thì Na-tiên đã thông suốt tam Phệ-đà, dẫu thầy A-đồ-lê hỏi xuôi ngược, hỏi nghĩa đen, nghĩa bóng, ẩn dụ, đoản ngôn,v.v... Na-tiên đã trả bài làu làu không vấp váp. Bất đồ, Na-tiên hỏi lại thầy:<br>
- Kính thầy A-đồ-lê! Tam Phệ-đà là ba con đường dẫn đến Phạm thể, đấng vô thượng chí tôn! Tri thức của thầy thông thái như vậy, nhưng con đường thực hành thì như thế nào? Thầy lựa chọn con đường nào? Thầy bà-la-môn nín lặng.<br>
- Hoặc là thầy đã từng thấy đấng Sáng tạo chủ, Hóa sanh chủ ấy chưa? Để cho vị thầy già bối rối với những câu hỏi, đồng tử Na-tiên đi đến gặp bàla-môn Sonuttara:<br>
- Thưa cha! Con không học nữa. Tri thức Phệ-đà thật vô ích vì chính thầy dạy học của con cũng không biết đấng Phạm thể ấy là thế nào, và cũng chưa từng chứng nghiệm hạnh phúc thể nhập Đấng Ây ra sao? Bà-la-môn Sonuttara sững người, ông cũng không biết ăn nói làm sao với con, đành nói át:<br>
- Nhưng con cần phải học nữa. Đồng tử Na-tiên lễ độ:<br>
- Vâng, thưa cha, con sẽ học, nhưng không biết là còn phải học những gì nữa?<br>
- Con phải học chữ, học viết; và cần phải học năm bộ sách nữa.<br>
- Thưa cha! Học chữ, học viết thì không cần nữa, vì một tháng nay con đã tự học rồi. Còn năm bộ sách kia là những bộ sách gì? Bà-la-môn Sonuttara lại cầu viện thầy A-đồ-lê giảng giải về năm bộ sách ấy như sau: 1. Về phúng tụng, nghi lễ. 2. Về thiên văn địa lý. 3. Xem xét thế giới, đức Iso và sự sáng tạo núi sông, cây cỏ, muôn loại... 4. Đoán mộng, xem tướng. 5. Vệ sinh thường thức như: rửa mặt, tắm, thọ dụng vật thực, đại tiểu tiện v.v... Đồng tử Na-tiên chăm chú nghe xong, hỏi:<br>
- Thưa cha! Năm bộ sách ấy đã có viết sẵn chưa?<br>
- Có viết sẵn, và gia đình chúng ta cũng có thờ năm bộ ấy.<br>
- Vậy xin cha hãy trả thù lao hậu hĩ cho thầy dạy học của con. Bắt đầu từ nay con có thể học được. Thế rồi, trước sự sững sờ, kinh ngạc của mọi người, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách, xin ở nơi một căn nhà trống trong khu vườn xinh đẹp để đọc, nghiên cứu, học tập. Trọn cả bảy ngày như vậy, Na-tiên chỉ rời sách khi dùng cơm và khi ngủ. Sau khi nắm trọn vẹn cả năm bộ sách, Na-tiên bần thần suy nghĩ: -" Có lợi ích gì đâu là những môn học này? Ngoại trừ về vệ sinh thường thức, còn ngoài ra chúng trừu tượng, xa vời so với đời sống, sự sống của con người. Nó chẳng cho ta hiểu rõ về nguồn gốc của sinh tử và nỗi khổ đau chung của sanh loại. Ôi! Thật là rỗng không và phù phiếm thay?" Suốt trong thời gian ấy, đại đức Rohana đã lui tới thường xuyên nơi ngôi nhà này, nhận sự cúng dường những món ăn thượng vị của bà-la-môn Sonuttara . Và hình bóng ngài đã trở nên thân thiết, ấm cúng cho mỗi người trong gia đình. Ngài theo dõi sự học tập và tâm tư của đồng tử Na-tiên trong mỗi ngày. Ngài biết rằng Na-tiên do nhờ công hạnh và trí tuệ tu tập nhiều kiếp theo Chánh pháp, vững chắc chánh kiến, nên những tư tưởng ngoại giáo thật khó tương ưng. Và hiện giờ Na-tiên đang chán nản, sầu muộn, hoài nghi. Biết vậy, như lực sĩ với cánh tay duỗi, đại đức Rohana đã xuất hiện trước mặt đồng tử Na-tiên với dung nghi chói sáng, với đôi mắt từ bi và nụ cười hiền dịu. Vừa thấy ngài, đồng tử Na-tiên tâm phát sanh phỉ lạc, hân hoan nghĩ rằng: "Ta từng thấy vị chân tu này mà chưa được đối mặt, chưa được hầu chuyện với ngài. Ôi! Được đáp vấn với ngài vài câu chắc lợi ích cho ta lắm." Bèn kính cẩn nói:<br>
- Bạch tôn trưởng! Tại sao tôn trưởng có phẩm mạo và y phục khác với kẻ thế? Đại đức Rohana thân ái ngồi xuống một bên:<br>
- Này con thân! Vì ta là kẻ xuất gia!<br>
- Người xuất gia là gì?<br>
- Là người tình nguyện lìa bỏ gia đình, quyến thuộc, tài sản, vợ con; sống đời đi xin ăn rày đây mai đó, chẳng có trú xứ nhất định, chẳng có nhà cửa, mái che; chỉ mang theo bên mình ba y và cái bát khất thực.<br>
- Xuất gia như vậy có lợi ích gì không, thưa tôn trưởng?<br>
- Có chứ! Có lợi ích nhiều lắm chứ con! Người xuất gia thường lánh xa điều ác, thường bỏ dữ làm lành, thường sống đời rỗng lặng, thanh tịnh, không có khổ đau, phiền muộn. Đồng tử Na-tiên suy nghĩ hồi lâu, lặng lẽ gật đầu ra chiều đã lãnh hội, rồi hỏi tiếp:<br>
- Tại sao tôn trưởng phải cạo bỏ râu tóc? Đại đức Rohana ân cần giải thích:<br>
- Người xuất gia vì muốn sống đời giải thoát như hư không nên phải cạo bỏ râu tóc; vì cạo bỏ râu tóc là muốn tránh tất cả những công việc bận rộn vô ích sau đây: 1. Tốn tiền và mất thì giờ do kiếm thợ cắt tóc và gội đầu. 2. Tốn tiền và mất thì giờ do mua trâm cài tóc, bối tóc, cột tóc hoặc chải tóc. 3. Tốn tiền mua hương liệu, dầu thơm và mất công xoa ướp. 4. Tốn tiền và mất công mua hoa kết làm tràng hoa. Ngoài ra, muốn cho đầu tóc được đẹp người ta còn trang điểm bằng những đồ trang sức như vàng, bạc cùng những loại đá qúy khác nữa. Vậy, nhờ tránh những bận rộn ấy mà người xuất gia có nhiều thì giờ dành cho sự tu tập đó con! Nhè nhẹ gật đầu, Na-tiên hỏi tiếp:<br>
- Còn tại sao lại mặc y nhuộm bằng vỏ cây, rễ cây?<br>
- Cũng tương tự như cạo bỏ râu tóc vậy, nghĩa là tránh những bận rộn do kiếm vải vóc, tốn tiền, tốn thời gian may vá, tìm kiếm thuốc nhuộm v.v..., áo quần đẹp như kẻ thế lại còn tốn thời giờ sửa soạn thân thể, vật trang điểm, vật thoa, vật thơm cùng những phiền phức khác nữa...<br>
- Con hiểu! Quả là mất thì giờ vào những việc phù phiếm ấy thì không đáng tí nào! Tất cả những lời nói của tôn trưởng đều rất hay, đều rất hợp với sở thích của con. Vậy chẳng hay tôn trưởng có thể chỉ dạy cho con phương pháp tu tập cao thượng như của tôn trưởng chăng? Đại đức Rohana mỉm cười:<br>
- Có thể được, con ạ! Nhưng có điều khó khăn, không biết con có vượt qua được chăng?<br>
- Con sẽ cố, thưa tôn trưởng!<br>
- Là con phải dứt bỏ tất thảy các điều bận rộn như ta nói ở trên; nghĩa là phải xin phép cha mẹ cạo bỏ râu tóc, mặc y nhuộm bằng vỏ cây thô xấu cho đúng với phẩm mạo của người xuất gia; sống không nhà cửa, đi theo ta mới mong thực hành, tu tập theo pháp môn cao thượng của ta được. Nghe lời đại đức Rohana, đồng tử Na-tiên ôm năm bộ sách về trả lại trên bàn thờ, ngồi lặng lẽ, buồn bã, bỏ ăn, bỏ ngủ. Bà-la-môn khi hiểu được ý định xuất gia của con trai, tự nghĩ: "Nếu cho nó đi xuất gia theo vị sa môn khả kính kia cũng là điều hay; khi lớn tuổi, khôn ngoan, hiểu biết, ta lại bắt về, lo gì!" Thế là đồng tử Na-tiên được phép gia đình đi theo đại đức Rohana, bắt đầu con đường tôi luyện, tu tập, hy vọng sau này trở nên một pháp khí đại dụng cho chánh pháp thời pháp nạn. * * * Hai thầy trò lầm lũi đạp tuyết dầm sương nhắm hướng Hymalaya đi thẳng. Thấy đồng tử Na-tiên còn quá nhỏ sợ không kham nổi nắng gió đường xa nên đại đức Rohana cho nghĩ chân tại chùa Niya Vijambùvatthu để dưỡng sức. Mấy ngày hôm sau họ mới tới được hang động Rakkhita kỳ vĩ, nơi ẩn cư của hội chúng Thánh nhân A-la-hán . Đồng tử Na-tiên thấy càng lúc càng đi sâu vào núi non cheo leo hiểm trở, khí lạnh buốt xương, rất nhiều loại thú rừng hoang dã lui tới đó đây, bèn cảm thấy sợ hãi. Đại đức Rohana trấn an:<br>
- Cả hàng trăm vị ẩn sĩ đang sống rất yên lành, thú dữ ở đây chúng không làm hại ai cả. Họ bước vào một hang động thiên nhiên hùng vĩ, không khí mát mẻ tỏa ra. Rất nhiều vị Thánh A-la-hán ngồi yên lặng thiền định, thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả trên những tảng đá bằng phẳng trơn tru.<br>
- Hiền giả đã làm xong bổn phận và đã về rồi đấy à, Rohana? Một vị Thánh Tăng mày bạc như hai vệt tuyết, người gầy khô, khẳng khiu nhưng cứng cáp như một cỗi tùng già, mở mắt cất tiếng hỏi. Đại đức Rohana dẫn đồng tử Na-tiên đến quỳ tâu:<br>
- Thưa vâng, con đã thi hành xong hình phạt cao thượng, và đây là đồng tử Na-tiên! Đại trưởng lão quan sát trẻ một hồi rồi nói:<br>
- Hạnh Ba la mật tinh tấn và nhẫn nại của hiền giả rõ ràng là đã thành tựu viên mãn, bần tăng xin chúc mừng hiền giả.<br>
- Con không dám!<br>
- Hình phạt tuy đã xong, nhưng hiền giả có nhân duyên làm thầy hòa thượng tế độ và làm thầy giáo thọ cho đồng tử Na-tiên nữa đấy!<br>
- Con xin vâng! Thế rồi, buổi chiều, đồng tử Na-tiên được cạo tóc, mặc chiếc y thô xấu, xuất gia làm sa di với sự chứng minh của hội chúng Thánh nhân A-la-hán, thầy tế độ là hòa thượng Rohana. Sau khi làm lễ xuất gia xong, ngài đại trưởng lão Assagutta vân du về chùa Nìyaka mà ngài từng ở trước đây, các vị A-la-hán khác chia nhau đi nhiều phương hoặc dời vào các hang động sâu trong tuyết sơn. Sa di Na-tiên liền tâu với đại đức Rohana:<br>
- Phẩm mạo xuất gia con đã làm xong rồi, vậy xin tôn trưởng chỉ giáo cho con phương pháp tu tập cao thượng. Đại đức Rohana nghĩ thầm: "Sa di này có trí nhớ phi phàm, hy vọng y sẽ thuộc nằm lòng được Thắng nghĩa pháp. Nhờ làu thông tạng Thắng nghĩa này, sau này sẽ là kho tàng trí tuệ để y tranh luận với đức vua Mi-lan-đà." Rồi ngài nói:<br>
- Này Na-tiên con! Giáo pháp đầy đủ gồm có 3 tạng, tổng cộng kinh chữ viết trên lá buôn, số lượng rất kinh khiếp, 16 con voi kéo cũng không hết! Ây là tạng Kinh, tạng Luật và tạng Thắng nghĩa pháp hay là Vi diệu pháp. Bắt đầu từ hôm nay, ta sẽ dạy con học tạng Vi diệu, là tạng khó nhất, con có kham nhẫn được chăng?<br>
- Con sẽ cố gắng!<br>
- Tốt. Bắt đầu từ ngày mai, chúng ta sẽ ra bãi cát ven suối, học tại đấy! Thế rồi, tuần tự, đại đức Rohana tụng đọc, viết, cắt nghĩa bảy bộ Abhidhamma cho sa di Na-tiên cùng với những giảng giải cặn kẽ, chi tiết: Dhammasanghanì: Bộ pháp tụ. Vibhangha: Bộ phân tích. Dhàtukathà: Bộ chất ngữ. Puggala pannati: Bộ nhân chế định. Kathàvatthu: Bộ ngữ tông. Yamaka: Bộ song đối. Patthànamahàpa karana: Bộ vị trí. Suốt mấy năm trường sa di Na-tiên chuyên cần học Vi diệu tạng. Khi đã học thuộc lòng cả bảy bộ, Na-tiên thưa với thầy:<br>
- Bạch tôn trưởng! Ngài dạy cho đệ tử như vậy là đã quá nhiều, chưa cần thiết phải dạy thêm. Hãy cho đệ tử suy gẫm giáo pháp cao siêu này cho tới nơi tới chốn. Cũng trong thời gian này, đại đức Rohana cặn kẽ chỉ dạy cho Na-tiên cách đi đứng nằm ngồi, mặc y, mang bát; cách cung kính, lễ bái các vị trưởng lão, cách sống với chúng ở giữa rừng núi, ở giữa phố thị, làng mạc v.v... Mỗi mỗi oai nghi, hành động, ăn nói phải cẩn trọng, thu thúc, gìn giữ như thế nào để cho xứng đáng phẩm hạnh của một sa môn. Na-tiên đã được dạy sơ về một số giới luật như thế, thêm một số kinh căn bản, vài pháp môn hít thở, thiền định, thiền quán v.v... Khi đã đến tuổi thiếu niên, có lẽ đã suy gẫm sâu xa về Vi diệu tạng cùng với những lý nghĩa rốt ráo của nó, Na-tiên quỳ bạch với đại đức Rohana, xin được thuyết lại bảy bộ Vi diệu tạng trước sự chứng minh của chư tỳ khưu Tăng. Đại đức Rohana hoan hỷ bằng lòng, với tâm truyền tâm, ngài thỉnh mời tất cả các vị trưởng lão, các vị Thánh nhân đồng quy hội tại hang động Rakkhita. Đến ngày, đại đức Rohana trang trọng kết một bảo tòa bằng lá cỏ để cho vị pháp sư tí hon đăng đàn thuyết pháp. Thế rồi, như sấm gióng giữa trời mưa, sa di Na-tiên thuyết như nước chảy mây trôi từng bộ Thắng nghĩa pháp với đầy đủ lý nghĩa sâu rộng; đầy đủ ẩn dụ, so sánh, phân tích, đoản ngôn, kệ ngôn v.v... một cách linh hoạt, dí dỏm, sắc bén, chưa từng được nghe. Bảy tháng, bảy bộ kinh Vi diệu tạng mới được thuyết xong! Cử tọa, thính chúng Thánh nhân rất vui mừng vì tâm huyết của các ngài thế là đã thành tựu bước đầu. Quả đất dày bốn mươi do tuần rung rinh chấn động. Chư thiên hoan hỷ tán dương công đức của vị sa di. Chư phạm thiên sắc giới cũng hết lòng khen ngợi biện tài của vị pháp sư siêu việt. Hoa Mạn-đà-la giữa hư không rơi xuống ngày đêm cúng dường Pháp Bảo. Lúc sa di Na-tiên tròn 20 tuổi, chư vị A-la-hán cho thọ đại giới làm thầy tỳ kheo; rồi được đại đức Rohana đẫn đi thăm các chùa dưới chân núi. Hôm kia, cùng thầy đi khất thực trong một ngôi làng, ý nghĩ sau đây khởi lên trong tâm của vị tân tỳ kheo: "Sao mấy năm nay thầy của ta không dạy thêm gì cho ta hết, hay ngài chỉ biết có bảy bộ Vi diệu tạng kia thôi, chẳng thông thuộc một giáo pháp nào khác?". Đại đức Rohana, với tâm biết tâm, biết ý nghĩ xấu quấy của Na-tiên, bèn mỉm cười nói rằng:<br>
- Này con! với tâm niệm như thế thật không xứng đáng cho con, một tu sĩ xuất gia phạm hạnh. Tâm niệm ấy là kiêu căng, ngã mạn, con có biết thế chăng? Tỳ khưu Na-tiên hoảng sợ, tóc dựng ngược, nghĩ rằng: "Ôi! Quả thật ta đã quấy quá, thầy ta quả thật là bậc đại trí thức, ta chẳng nên tự làm hại ta bởi những ý nghĩ xuẩn ngốc." Rồi Na-tiên quỳ mọp xuống đất, ôm chân bụi của đại đức Rohana:<br>
- Xin thầy từ bi xá tội cho đệ tử, đệ tử nguyện sẽ không còn dám tái phạm nữa. Đại đức Rohana lắc đầu:<br>
- Ta không thể xóa tội ấy cho con được! Để cho Na-tiên quỳ xin sám hối đúng ba lần, đại đức Rohana mới nói:<br>
- Thôi được rồi, cũng không muộn gì. Con phải siêng học pháp học cho thành tài, phải đi vào pháp hành cho rốt ráo. Bao giờ con có thể dùng trí tuệ của mình khuất phục được đức vua Mi-lan-đà, kinh đô Sàgala, để nhà vua phát tâm trong sạch, quy ngưỡng theo Phật giáo, thì khi ấy ta sẽ xá tội cho con. Tỳ khưu Na-tiên chấp tay, cúi đầu nhũn nhặn:<br>
- Bạch tôn trưởng! Lúc nào là đúng thời? Và đức vua ấy là người ra sao?<br>
- Trái cây kia còn xanh, không thể mong nó chín vội. Vậy đến lúc nào đó, tự con sẽ thấy là đúng thời, tự con sẽ biết.<br>
- Đệ tử sẽ còn học và hành bao lâu nữa?<br>
- Con còn phải văn, tư và tu nhiều lắm, hãy biết như vậy! Suy nghĩ một lúc, tỳ khưu Na-tiên lại hỏi tiếp:<br>
- Ba tháng mưa tới đây, đệ tử sẽ nhập hạ ở đâu để có được sự tấn ích lợi lạc?<br>
- Con hãy bộ hành đến chùa Nìyaka và thọ giáo với vị đại trưởng lão ở đấy. Nói rằng ta gởi lời vấn an sức khỏe của người. Đến ngày tỳ khưu Na-tiên từ giã thầy bổn sư để lên đường. Tại chùa Nìyaka, Na-tiên gặp lại đại trưởng lão mà ngài từng gặp ở thạch động Rakkhita, đảnh lễ, vấn an sức khỏe của người rồi ngồi sang một bên. Vị đại trưởng lão chính là ngài Assagutta, giả vờ hỏi rằng:<br>
- Ngươi tên chi?<br>
- Tên của đệ tử, ngài rõ rồi.<br>
- Vậy tên ta là gì?<br>
- Thầy bổn sư của đệ tử biết rõ tên của ngài.<br>
- Bổn sư của ngươi tên gì?<br>
- Ngài đã biết rõ tên bổn sư của đệ tử. Đại trưởng lão Assagutta rất thú vị, bèn nói:<br>
- Đúng thế! Rồi thầm nghĩ: "Ngài Rohana gởi y đến ta là cốt ý để ta mài giũa cái "pháp khí" này cho sắc bén, nhưng ta sẽ không mài giũa, ta sẽ làm cho nó cùn nhụt bớt đi. Hãy dập tắt kiêu căng, ngã mạn nơi tỳ khưu Na-tiên này." Kể từ hôm ấy, đại trưởng lão Assagutta giữ im lặng, không nói một lời dầu cho tỳ khưu Na-tiên có hỏi gì chăng nữa. Ngoài ra, chỗ nào mà Na-tiên quét dọn, cất đặt, đại trưởng lão Assagutta cất đặt, quét dọn lại. Nơi nào Na-tiên múc nước đầy, ngài nghiêng đổ đi, múc nước nơi khác rửa mặt, tay chân v.v...Tuy nhiên, Na-tiên không lấy thế làm phiền hà, một lòng nhẫn nại, mềm mỏng để vượt qua tất cả mọi thử thách. Ba tháng như vậy qua đi. Một bữa kia, có người cận sự nữ thân tín, lâu năm, đến chùa thỉnh đại trưởng lão xin cúng dường để bát tại nhà, rồi nói:<br>
- Dường như ở chùa có vị khách tăng từ phương xa đến an cư, phải thế không, bạch ngài?<br>
- Có, là tân tỳ kheo Na-tiên .<br>
- Đệ tử xin thỉnh luôn vị ấy. Đại trưởng lão Assagutta im lặng nhận lời. Hôm sau, cũng không mở miệng, ngài ra dấu hiệu bảo Na-tiên đắp y mang bát đi theo. Người cận sự nữ sau khi tự tay mình dâng cúng thực phẩm thượng vị đến bát cho hai ngài, đợi hai ngài dùng xong bèn thưa thỉnh muốn được nghe pháp. Đại trưởng lão chợt nói với Na-tiên:<br>
- Ông hãy tùy nghi thuyết pháp làm sao cho thí chủ của ông được hoan hỷ. Nói xong, chẳng đợi Na-tiên "ừ hử" ra sao, đại trưởng lão đã quăng bát qua hư không, bay về chùa Nìyaka trong thời gian chớp mắt. Na-tiên ngơ ngẩn, xuất thần mà bà tín nữ cũng ngơ ngẩn xuất thần một lúc lâu. Người cận sự nữ bèn tâu:<br>
- Thỉnh đại đức thuyết pháp. Đệ tử đã 30 năm tu học làm một cận sự tại gia, hôm nay chỉ thích nghe pháp sâu xa mầu nhiệm hầu mở mang trí tuệ. Tỳ kheo Na-tiên định tâm một lát, đoán căn cơ, rồi với tâm chân thật và lòng bi mẫn, nói rằng:<br>
- Hãy nghe đây bà tín nữ! Bà không muốn nghe nhiều lời mà tôi cũng mới chỉ là tân tỳ kheo, tu học chẳng bao lâu, không có nhiều pháp. Vậy tôi chỉ thuyết tóm tắt một kệ ngôn thôi, bà hãy nhiếp tâm và chăm chú lắng nghe!<br>
- Vâng, thưa đại đức. Rồi với giọng phát âm chuẩn mực, chính xác nhất, tỳ kheo Na-tiên ngâm một kệ ngôn như sau: "Yamkincisamudayadhamma sabbantam nirodhadhammam; có nghĩa là: "tất cả các pháp được cấu tạo, kết hợp, hữu vi; nó do duyên sanh thì phải theo duyên diệt". Như chìa khóa mở cửa kho tàng, câu kệ ngôn được thuyết lên hàm nghĩa tinh yếu giáo pháp đã vén mở trí tuệ cho bà tín nữ. Thanh âm trầm hùng, vi diệu của câu kệ như tiếng chuông ngân vừa chìm lắng trong không gian, bà đã đắc quả Tu-đà-huờn, nhập vào dòng Thánh. Xiết bao hoan hỷ, bà tín nữ già nua quỳ mọp xuống đảnh lễ với những giọt nước mắt rơi lả chả: giọt nước mắt mừng vui, vì bà biết rằng từ đây, còn rất ít phiền não, bà sẽ nhẹ nhàng cất cánh bay về cõi Bình an Vĩnh hằng! Trong lúc ấy, ở chùa Nìyaka, đại trưởng lão Assagutta dùng thần thông theo dõi và biết rõ mọi chuyện, ngài thốt lên: "Lành thay, lành thay!" rồi suy nghĩ: "Tỳ kheo Na-tiên vừa được trí vừa được tâm, khá lắm! Ngã mạn, tự cao giờ y đã lắng dịu! Bài pháp ngắn gọn vừa rồi chứng tỏ y đầy đủ công hạnh bala-mật từ quá khứ. Chỉ với một mũi tên buông ra là trúng đích, cũng vậy, một câu kệ ngôn thôi mà đã làm cho bà tín nữ cắt đứt một lúc ba sợi dây trói buộc là thân kiến, hoài nghi và giới cấm thủ. Hy hữu thay!" Trên hư không, đại trưởng lão Assagutta còn nghe được rất nhiều chư thiên phát tâm thỏa thích, rải hoa cúng dường và hết lòng tán thán trí tuệ ba-la-mật của tỳ kheo Na-tiên . Trở về chùa, tỳ kheo Na-tiên đến đảnh lễ đại trưởng lão rồi ngồi xuống một nơi phải lẽ. Tôn giả Assagutta nói:<br>
- Ngươi đã thuyết gì?<br>
- Bạch, ngài đã biết rõ hơn cả đệ tử nữa! Im lặng.<br>
- Ngươi thuyết "hay" nhỉ?<br>
- Bạch tôn trưởng, ngài đã qúa khen, vả lại, ngãi cũng rõ, không phải đệ tử thuyết "hay", mà nhờ may mắn là đúng căn cơ! Im lặng.<br>
- Chân thực, nhẫn nại là những ba-la-mật mà ngươi đã tự thành tựu!<br>
- Đệ tử nhờ sự chỉ dạy của tôn trưởng.<br>
- Tất cả những ba-la-mật khác cũng cần phải được tu tập cho trọn vẹn, sung mãn như thế.<br>
- Thưa vâng! Im lặng. Đại trưởng lão chợt ân cần nói với Na-tiên:<br>
- Bây giờ ta phải trở lại Hy-mã-lạp sơn, còn ngươi thì hãy đi đến phía tây của thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka, đảnh lễ vị trưởng lão tên là Dhammarakkhita. Ở đấy ngươi có thể học hỏi được ít nhiều.<br>
- Bạch tôn trưởng, ngài không chỉ dạy gì thêm cho đệ tử nữa sao?<br>
- Ta còn một vài việc nữa trước khi Niết-bàn, nhưng đối với ngươi thì ta đã hết trách nhiệm và bổn phận. Hãy chuẩn bị và lên đường vào sáng hôm sau. Na-tiên chợt xúc động quỳ ôm chân bậc tôn trưởng, lát sau mới hỏi:<br>
- Đệ tử không còn gặp ngài nữa chăng?<br>
- Duyên đã mãn. Im lặng.<br>
- Từ đây đến chùa Asoka là bao xa, thưa tôn trưởng?<br>
- Chừng một trăm do tuần. Im lặng.<br>
- Xin ngài bi mẫn dạy cho con một lời cuối cùng?<br>
- Hãy thắp sáng ngọn đuốc Chánh Pháp! Khi Na-tiên quỳ xuống thành kính đảnh lễ, ngước lên thì không còn trông thấy đại trưởng lão Assagutta nữa; ngài bùi ngùi đứng lặng nhìn vào giữa hư không, cảm thán thốt lên: "Ôi! Các bậc Thánh nhân trên đời này họ đến đi nhẹ nhàng, thanh thoát, gót chân họ không hề dính dù là một chút bụi hư không." Sáng ngày, vị tân tỳ kheo Na-tiên lầm lũi nhắm thành phố Pàtaliputta lên đường. Đi mới được một đổi, một đoàn năm trăm cổ xe với hàng hóa chất đầy tung bụi lướt qua. Tỳ kheo Na-tiên đứng nép vào gốc cây ven lộ. Thấy ngài, người bá hộ khách thương cho dừng xe lại, đến bên cung kính hỏi:<br>
- Bạch ngài, ngài định bộ hành về đâu?<br>
- Bần đạo đến thành phố Pàtaliputta, chùa Asoka.<br>
- Con cũng về hướng ấy, vậy xin thỉnh ngài cùng đi với con.<br>
- Cảm ơn lòng tốt của thí chủ.<br>
- Xin ngài đừng cảm ơn con, con là một cư sĩ, con làm việc ấy vì tâm hoan hỷ, vì bổn phận thích đáng của người Phật tử. Tỳ kheo Na-tiên từ tốn mỉm cười, khẽ gật đầu. Thế rồi họ cùng lên xe tiếp tục hành trình. Người khách thương lặng lẽ quan sát tướng mạo, ngôn ngữ, cử chỉ của vị sa môn trẻ trung, xinh đẹp mà không ngớt khen thầm trong lòng. Khắp nơi, Tăng lữ ly tán, chùa chiền hoang phế; chỉ còn năm, bảy am thất khuất tịch là còn sinh hoạt<br>
- thế mà ở đâu lại sản sinh ra một vị tỳ kheo phi phàm như thế này? Vị khách thương chợt nói:<br>
- Từ đây đến chùa Asoka, chúng ta phải đi mất bảy, tám ngày đường, vậy trong thời gian ấy, đại đức hãy cho phép con được dâng cúng vật thực vào mỗi bữa trưa. Tỳ kheo Na-tiên nhận lời bằng cách làm thinh. Đường xa, người khách thương được dịp hầu chuyện.<br>
- Vị bổn sư mà con quy y là một vị luận sư tinh thông Vi diệu tạng, nên con cũng mê say môn học ấy. Vậy chẳng hay đại đức có thể chỉ giáo cho con một vài điểm trong tạng ấy chăng? Tỳ kheo Na-tiên ngạc nhiên nói:<br>
- Là cư sĩ mà ông cũng học Vi diệu tạng ư? Về tạng ấy bần đạo cũng có học được chút ít. Ông cư sĩ cứ hỏi, bần đạo sẽ trả lời bằng khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình. Thế rồi, thầy trò ngày đi đêm nghỉ. Những câu hỏi lần lượt của người khách thương đưa ra, được tỳ kheo Na-tiên khiêm tốn trả lời. Trước dễ, sau khó, từ cạn vào sâu... người khách thương đã thật sự kinh ngạc trước kiến thức bao la như đại dương của vị tỳ kheo trẻ. Ông ta lại càng kính trọng và khâm phục hơn nữa ở đức tính nhũn nhặn, khiêm hòa và sự định tĩnh tâm hồn được biểu hiện qua nụ cười, đôi mắt cùng tứ oai nghi của ngài. Những câu hỏi về Vi diệu tạng vừa chấm dứt thì thành phố Pàtaliputta cũng vừa hiện ra ở cuối tầm mắt. Người khách thương như vừa tắm xong trong một dòng suối trong lành của Pháp bảo, ông ta hoan hỷ và thỏa thích vô hạn; huệ nhãn phát sanh, mọi trần cấu, bợn nhơ phiền não thô thiển chợt dưng lắng dịu, những ác pháp không còn dấy khởi lên nữa: ông ta đã chứng quả Nhập lưu! Khi chia tay, người khách thương phát tâm trong sạch cúng dường xấp vải Kampala quý báu dài mười sáu hắc tay, rộng tám hắc tay. Tỳ kheo Na-tiên nói lời chúc phúc rồi từ giã. Đến chùa Asoka, Na-tiên tìm gặp trưởng lão Dhamm-arakkhita, đảnh lễ, dâng xấp vải quý cho ngài rồi bạch rằng:<br>
- Đệ tử từ chùa Nìyaka lặn lội đường xa tới đây, mong ngài từ bi dạy pháp học cho đệ tử.<br>
- Ông là đệ tử của ai?<br>
- Bạch, tất cả các vị tôn túc trưởng lão trong hang động Rakkhita đều là thầy của đệ tử. Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu rồi hỏi tiếp:<br>
- Thầy trực tiếp là vị nào?<br>
- Thưa, tôn trưởng Rohana, tôn trưởng Assagutta.<br>
- Đấy là các bậc đại Tôn túc Thánh nhân! Các ngài ấy đã dạy cho ông những gì?<br>
- Một vị dạy đệ tử Vi diệu tạng và uy nghi giới hạnh, một vị dạy đệ tử đức chân thật, khiêm cung và nhẫn nại.<br>
- Tốt, vậy bây giờ ông muốn học gì nữa?<br>
- Đệ tử pháp học còn kém cỏi, thiếu sót, xin ngài vì lòng bi mẫn dạy thêm cho đệ tử về Kinh và Luật. Tôn giả Dhammarakkhita im lặng nhận lời. Ngày hôm sau có một vị tăng tên là Tissadatta từ Tích lan vượt biển tìm đến cũng mong được học tạng Kinh bằng ngôn ngữ Magadha. Khi được hỏi, vị tỳ kheo này cho biết là đã học thuộc nằm lòng tạng Kinh bằng tiếng Lankà, nay muốn học thêm tạng Kinh bằng tiếng Magadha để tiện bề so sánh, đối chiếu. Tôn giả Dhammarakkhita và tỳ kheo Tissadatta nói chuyện với nhau bằng tiếng Tích lan. Khi trao đổi xong, tỳ kheo Tissadatta quỳ xuống đảnh lễ tôn giả Dhammarakkhita. Buổi chiều, tôn giả Dhammarakkhita nói với Na-tiên:<br>
- Bắt đầu từ ngày mai, ông cùng học chung với tỳ kheo Tissadatta! Na-tiên lắc đầu:<br>
- Đệ tử không muốn học chung với vị ấy.<br>
- Tại sao?<br>
- Thưa , người xứ Sàgala không thích ngôn ngữ Lan-kà, nên đệ tử chỉ muốn học tạng kinh bằng tiếng Magadha thôi! Tôn giả Dhammarakkhita chợt nghiêm mặt:<br>
- Dĩ nhiên là ta dạy bằng tiếng Magadha! Nhưng ông đã hiểu lầm ta và có ý nghĩ xấu về tỳ kheo Tissadatta, ông có thấy thế không? Một luồng khí lạnh chạy dọc sống lưng, Na-tiên quỳ mọp xuống xin sám hối, nghĩ thầm trong tâm rằng: "Những ý nghĩ xấu quấy của ta như thế nào, ngài đều biết rõ cả, vậy hãy cố gắng sống đời tỉnh thức, chánh niệm trong mỗi hơi thở." Thế rồi họ lần lượt học năm bộ kinh Nikàya bằng tiếng Magadha, ấy là: Dìgha, Majjhima, Samyutta, Angutta-ra và Khuddaka. Trí nhớ của Na-tiên thật phi thường, chưa tới mười hôm đã học thuộc lòng bộ Dìgha Nikàya, trong lúc ấy Tissadatta chưa học xong được một nửa! Ban đầu, tôn giả Dhammarakkhita muốn dìm bớt tính khí kiêu ngạo của tỳ kheo Na-tiên bằng cách không dạy tiếp nếu tỳ kheo Tissadatta chưa thuộc. Nhưng sau thấy Na-tiên không tỏ vẻ nóng nảy, vẫn lặng lẽ chờ đợi, thì giờ rảnh rỗi, ngài thấy Na-tiên tìm chỗ khuất vắng để tìm hiểu nghĩa kinh, hay ngồi thiền định, nên ngài lại đổi ý. Lại nữa, trong lúc này Phật giáo đang gặp nạn, các tôn giả Rohana và Assagutta đã ân cần gởi gắm; vậy sự thành toàn pháp học cho Na-tiên sớm chừng nào sẽ tốt chừng ấy. Vì nghĩ vậy nên tôn giả Dhammarakkhita dạy tiếp cho Na-tiên. Và chỉ vỏn vẹn có ba tháng, Natiên đã thuộc nằm lòng năm bộ kinh. Ba tháng sau đó nữa, Na-tiên thuộc lòng luôn cả năm bộ chú giải. Vô cùng bằng lòng về người đệ tử thông minh tuyệt hảo, không để mất thì giờ, tôn giả Dhammarakkhita dạy luôn tạng Luật cho người học trò yêu. Thế rồi, trải qua bốn tháng nữa, Na-tiên thông suốt thêm tạng Luật và luôn cả chú giải. Hôm kia, tôn giả Dhammarakkhita dẫn Na-tiên đi dạo qua một vùng đồi, chỉ tay vào một khu rừng xa, ngài nói:<br>
- Có lần, Phật tổ nói gì về nắm lá trong tay so với lá cây trong rừng kia?<br>
- Thưa, ngài bảo rằng, nhiều như lá cây trong rừng kia là hiểu biết của ngài; nhưng những gì ngài chỉ dạy, thuyết ra chỉ bằng nắm lá trong tay của ngài thôi.<br>
- Vậy là thế nào nhỉ?<br>
- Thưa, Đức Thế Tôn chỉ nói những điều đáng nói, cần thiết, điều lợi ích cho chúng sanh; ngoài ra, những điều vô bổ, phù phiếm, những điều rỗng không nhằm thỏa mãn kiến thức, không đưa đến giác ngộ, giải thoát, ngài không nói.<br>
- Đúng thế! Ngay chính những điều mà ngài nói ra, được ghi lại trong Tam Tạng, chúng có phải là Sự thật chăng? Là chân lý chăng?<br>
- Thưa, không phải, chúng chỉ là ngón tay trỏ chỉ mặt trăng, chứ chẳng phải mặt trăng! Tôn giả Dhammarakkhita gật đầu:<br>
- Con hiểu vậy là chính xác! Lúc ấy, một người chăn bò đang lùa một đàn bò đi ngang qua. Đợi cho đàn bò đi khuất, ngài Dhammarakkhita nói:<br>
- Con có liên tưởng gì về người chăn bò và đàn bò này?<br>
- Thưa, người chăn bò kia có lẽ biết rất rõ đàn bò ấy có mấy trăm con, bao nhiêu đực cái, bao nhiêu bê con, con nào già yếu, con nào sắp sinh v.v... Y lại còn rất rành cách chăm sóc, nuôi dưỡng đàn bò sao cho mập, mau phát triển; nhưng vị ngon, vị ngọt của sữa bò như thế nào... thì có lẽ là người khác được hưởng còn y không được hưởng!<br>
- Đúng như vậy.<br>
- Thưa, cũng dường thế ấy, người làu thông Tam tạng, rành rẽ giáo pháp, có thể giảng nói kinh nghĩa, kệ ngôn thao thao bất tuyệt, tháng này qua tháng nọ; phân tích chi ly từng mục, đoạn, phần..., các chi pháp rất rạch ròi, phân minh...; nhưng nếu y chưa nếm được hương vị của Pháp, chứng nghiệm Pháp, sống trong Pháp... thì so với người chăn bò có khác gì đâu?<br>
- Đúng như vậy! Này con, con đừng làm người chăn bò tội nghiệp kia nhé! Tỳ kheo Na-tiên nghe rúng động cả châu thân, thầm cảm kích sâu xa sự giáo giới, nhắc nhở của vị thầy siêu việt, ngài quỳ xuống ôm chân bụi bậc tôn trưởng:<br>
- Làu thông Tam tạng cũng trở nên rỗng không, vô ích nếu chưa chứng ngộ Pháp mầu. Đệ tử biết là đệ tử phải làm gì rồi. Sau buổi đàm đạo ấy, Na-tiên rút vào một cốc vắng để chuyên tu thiền định và thiền quán. Ngài nhất mực tinh tấn theo đuổi pháp hành. Ngoài việc khất thực để nuôi mạng, thì giờ còn lại ngài gia công chuyên niệm ngày đêm, chỉ nghỉ nghiêng lưng vào canh cuối. Hôm kia, tuệ giác bừng sáng, thấy rõ Diệt đế, ngài đắc A-la-hán quả, luôn cả 4 tuệ phân tích (Patisambhidanana) và thần thông. Ngay khi ấy trời đất có những hiện tượng phi thường như địa cầu chấn động, biển cả sóng dâng cao, núi Tu-di rung rinh, chư thiên hoan hỷ và hoa trời rơi xuống cúng dường v.v... Tôn giả Dhammarakkhita xuất hiện, mỉm nụ cười hoa sen:<br>
- Ta chúc mừng con việc lớn đã thành. Hiện giờ các đại tôn giả ở đỉnh núi Himalaya đang chờ con để giao phó công việc đấy! Xiết bao cảm kích, tỳ kheo Na-tiên lạy tạ từ biệt thầy, tức khắc biến mất khỏi chỗ và có mặt ngay tại hang động Rakkhita trước mặt hội chúng Thánh nhân A-la-hán. Sau khi đảnh lễ các vị đại tôn giả, tỳ kheo Na-tiên nhìn quanh không thấy đại trưởng lão Assagutta, biết ngay là ngài đã Niết-bàn rồi. Đại đức Rohana biết ý, nói rằng:<br>
- Bậc đại tôn trưởng Assagutta trước khi diệt độ có dạy lại rằng, con phải tìm cách phục hưng Chánh Pháp.<br>
- Đệ tử phải làm như thế nào? Và đây có phải là thời mà tôn trưởng sẽ xá tội xưa của đệ tử?<br>
- Phải rồi! Mọi nhân mọi duyên đều đã đầy đủ. Các vị tôn túc trưởng lão đã phải khổ công thành toàn Pháp học và Pháp hành cho con. Trước mắt, con phải làm hai công việc.<br>
- Đệ tử xin nghe!<br>
- Việc thứ nhất là phục hưng tất cả các chùa chiền hoang phế, quy tụ Tăng lữ trở về, cho xuất gia thêm, đào tạo Tăng tài, tổ chức các buổi thuyết pháp ở nhiều nơi để cận sự nam nữ có cơ hội trở lại với những sinh hoạt y như trước đây!<br>
- Thưa, một mình đệ tử sợ không kham nổi.<br>
- Con chớ lo lắng, ở đâu cần sự giúp đỡ, chư tôn túc trưởng lão ở đây sẽ xuất hiện kịp thời!<br>
- Vậy đệ tử xin hoan hỷ nhận lãnh trách nhiệm mà quý ngài đã giao phó.<br>
- Việc thứ hai là sau khi việc thứ nhất đã đi vào nề nếp, con hãy đến tại kinh đô Sàgala chùa Sankheyya, có vị đại đức tên là Ayupàla ở đấy, con chuẩn bị để gặp gỡ đức vua Mi-lan-đà và khôn khéo sử dụng tất cả mọi khả năng trí tuệ của mình. Con phải nhiếp phục đức vua ấy, đấy là mệnh lệnh tối hậu.<br>
- Đệ tử có nhiếp phục được chăng?<br>
- Hãy quán nhân duyên, con sẽ thấy! Nghe lời, tỳ kheo Na-tiên nhiếp tâm, theo dõi tiến trình sinh tử của chính mình từ kiếp này sang kiếp kia; lâu sau, ngài thấy một ngôi chùa lớn ven sông, thời Phật Ca diếp, ngài làm một vị tỳ kheo như thế, vua Mi-lan-đà hiện nay, trước kia làm một vị sa di như thế. Vì lời nguyện của cả hai như vậy nên bây giờ có nhân có duyên như vậy. Xúc động Chánh Pháp, tỳ kheo Natiên qùy xuống dưới chân các bậc tôn trưởng:<br>
- Quý ngài đã khổ tâm vì đệ tử , vì nhân duyên của chính đệ tử mà từ lâu đệ tử không thấy, không biết. Vậy xin quý ngài tha thứ tất cả lỗi lầm của đệ tử dù cố ý hay vô tình mà xâm phạm đến quý ngài! Tiếng "lành thay, lành thay" vang lên. Khi Na-tiên ngửng đầu thì chẳng còn ai ở đấy nữa, hang động vắng tanh, lạnh lùng... dường như chỉ còn thoảng mùi hoa hương vi diệu mà chư thiên rải xuống cúng dường. Ngơ ngẩn, xuất thần, Na-tiên đảnh lễ hang động Rakkhita lần cuối cùng rồi sửa lại y bát xuống núi theo con đường hạnh nguyện.</p>
<p>---o0o---</p>
Trong lúc ấy, tại Hy-mã-lạp-sơn, ở hang động Rakkhi--ta kỳ vĩ, rộng lớn, xinh đẹp như cõi trời, có mấy chục vị A-la-hán ngụ cư, họ sống tương ái, tương kính, hòa hợp như nước với sữa, đang thọ hưởng lạc về thiền, lạc về quả. Hôm kia, sau khi xuất định, vị đại trưởng lão Assagutta hướng tâm đến thế gian, ngài thấy rõ chuyện đức vua Mi-lan-đà đã dùng uy lực của trí tuệ, uy lực của kiến thức đa diện áp đảo sa môn, bà-la-môn, đạo sĩ trong cõi Diêm-phù-đề. Nếu tình trạng ấy kéo dài thì Phật pháp chắc sẽ bị lu mờ và tiêu vong. Hôm kia, đại trưởng lão Assagutta triệu thỉnh tất cả chư vị A-la-hán tụ tập trên đỉnh núi Yugandhara, kể lại chuyện vua Mi-lan-đà, tình trạng Chư Tăng, các hàng cận sự nam nữ vắng mặt trong tất cả chùa chiền, am thất, tu viện, tự viện..rồi kết luận như sau:
- Vậy thì có vị đại đức nào có thể nhiếp phục đức vua bằng trí tuệ của mình, có thể giải đáp tất cả mọi câu hỏi để phá nghi cho đức vua; soi rọi, dẫn lối cho đức vua thấy rõ chánh pháp; làm cho đức vua ấy phát khởi lòng tin để nâng đỡ, hộ trì Phật giáo thì hãy đứng lên nhận lãnh sứ mạng cam go này? Đại trưởng lão Assagutta hỏi đến lần thứ ba, hội chúng thánh nhân vẫn im lặng. Ngài biết rằng chư vị A-la-hán này thành tựu tâm giải thoát, tuệ giải thoát nhưng sở học, kiến thức, tuệ phân tích, biện tài, biện thông...chẳng thể nào so sánh nổi với đức vua Mi-lan-đà, bèn gợi ý: -Trên cõi trời Đao-lợi có một vị thiên tử tên là Mahàse--na, ở trong cung vàng Ketumatì, phía trước bảo điện của Đế thích Thiên chủ. Vị thiên tử Mahàsena ấy có trí tuệ vượt bậc, có thể đàm luận, tranh biện để giải nghi, giải vấn tất cả mọi thắc mắc cho đức vua Mi-lan-đà. Ngài đại trưởng lão vừa nói xong, với tâm biết tâm, tất cả Thánh chúng Ala-hán đồng từ giã tuyết lãnh, bay lên Đao-lợi thiên cung với thời gian như viên lực sĩ duỗi cánh tay. Đức Đế-thích trông thấy chư tỳ khưu Tăng như đám mây lành đồng giáng hạ, vui mừng đến cung nghinh, đảnh lễ rồi quỳ bên chân đại trưởng lão Assagutta, bạch rằng: -Hôm nay, chẳng hay quý ngài có nhân duyên gì mà đồng vân tập về trú xứ của con? Con đang sẵn sàng nghe lời dạy bảo của quý ngài. Đại trưởng lão Assagutta bèn kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà , với nỗi lo ngại sự suy tàn của giáo pháp, vì trong toàn cõi Diêm-phù-đề chẳng ai có khả năng đối thoại được với đức vua ấy. Vua trời Đế thích nghe xong, hỏi rằng:
- Đức vua Mi-lan-đà ở kinh đô Sàgala kia, phải chăng vừa từ cõi trời Đao-lợi này mà sanh xuống?
- Đúng thế! Vua trời Đế thích gật đầu:
- Vậy thì đúng rồi! Trí tuệ của đức vua Mi-lan-đà quả thật thế gian không có người "thứ ba"! Đại trưởng lão Assagutta mỉm cười:
- Bần tăng cũng biết vậy nên đã đồng quy tụ về đây, những mong Thiên chủ giúp đỡ triệu thỉnh thiên tử ở trong cung vàng Ketumatì giáng sanh xuống cõi trần! Chỉ có vị thiên tử ấy may ra mới có đủ trí tuệ sắc bén để đối thoại, giải vấn cho đức vua Mi-lan-đà mà cứu nguy cho chánh pháp. Đế thích Thiên chủ nói:
- Con xin vâng mệnh. Vậy xin cung thỉnh qúi ngài cùng với con sang cung điện của thiên tử Mahàsena. Đến nơi, sau khi chào hỏi xong, Đế thích Thiên chủ giới thiệu chư vị Thánh Tăng từ Tuyết sơn, kể lại chuyện đức vua Mi-lan-đà rồi kết luận rằng:
- Quý ngài đã không quản tuổi già sức yếu, cỡi gió đạp mây lên đây với lòng thành thỉnh nguyện thiên tử hạ sanh cõi trần, ở đấy Phật giáo đang gặp nạn, phải nhờ trí tuệ của thiên tử may ra mới phục hưng được chánh giáo. Thiên tử Mahàsena nghe xong, với tâm dửng dưng nhìn ra xa đáp:
- Tâu Thiên chủ! Hạ thần không còn một mảy may xúc động tham muốn gì trong việc tái sanh kia nữa. Vả, cõi người thường bận rộn trong việc nuôi mạng, vui ít khổ nhiều, lại đầy trược hạnh. Vậy xin Thiên chủ rộng lòng thông cảm, hạ thần đã chán sinh tử, thường mong hóa sanh vào các cõi tịnh cư, đắc thánh quả rồi Niết bàn luôn ở đấy. Đại trưởng lão Assagutta lên tiếng thuyết phục:
- Thiên tử nói rất đúng! Tử sinh đáng chán, phiền não nên lìa. Hơn một trăm năm qua, bần tăng ở nơi hoang sơ cùng cốc, chuyện thế gian thật không còn dính một hạt bụi, đáng ra là phải Niết bàn lâu rồi, nhưng còn cố duy trì thọ mạng là vì một chút nhân duyên với chánh pháp. Phật tổ xuống trần cũng vì sự khổ đau của sanh loại. Lẽ nào thiên tử lại làm ngơ trước cảnh Chư Tăng phải trốn vào rừng sâu? Bao nhiêu am thất, chùa chiền, tu viện, tự viện hoang vắng? Hằng vạn cận sự nam nữ không có chỗ nhờ nương? Lẽ ra thiên tử phải phát tâm bi mẫn mới đúng! Lại nữa, Ngũ tịnh cư thiên là nơi thọ hưởng về quả của định tứ thiền, chẳng phải là nơi có thể tu tập sung mãn về phước, về tuệ, để đến chỗ giải thoát; ngoại trừ một số vị chứng quả Bất lai, không tu tập mà dòng tâm vẫn trôi chảy về Niết bàn. Sự thật ấy thiên tử nên hiểu cho chính xác. Chính ở cõi người có khổ, có vui, có vô thường, vô ngã, v.v... thiên tử mới dễ tu tập, mới dễ hiện quán để chứng ngộ đạo quả tối hậu là sở nguyện đã muôn triệu năm của thiên tử vậy. Lời nói đầy đủ tình lý, kinh cảm từ tâm, mở phơi chánh đạo, làm cho thiên tử Mahàsena vô cùng phấn khích, ngài qùy xuống dưới chân đại trưởng lão Assagutta, kính cẩn nói rằng:
- Vậy là ngài đã mở mắt và soi tỏ con đường cho con đi, ân đức ấy con chẳng thể nào đáp đền được; con nguyện thực thi theo lời dạy bảo của ngài hạ sanh xuống cõi trần vì lợi ích cho bao người mà cũng vì lợi ích cho con để con đầy đủ khả năng tuệ giác hầu nhiếp phục đức vua Mi-lan-đà và chấn hưng giáo pháp. Chư vị Thánh Tăng cùng Thiên chủ Đế thích vô cùng hân hoan. Thế rồi, mỗi vị A-la-hán chia phước trí theo cách riêng của mình, từ giã cõi Đao-lợi bay về tuyết lãnh Hymalaya. Khi Chư Tăng đã quy hội đầy đủ trên đỉnh núi Yuga-ndhara, ngài Assagutta chợt hỏi:
- Thưa chư đại đức! Trong cuộc hội họp vừa rồi, có ngài tỳ khưu nào vắng mặt chăng? Một vị tâu:
- Kính bạch tôn giả! Đại đức Rohana đang nhập đại định bảy ngày trong hang động là không đến hội họp.
- Vậy phiền hiền giả cho mời đại đức
|